Sunday, July 5, 2009

Nha Kỹ Thuật / Trung Tá Trần Bá Tuân Sở Công Tác

Nha Kỹ Thuật / Trung Tá Trần Bá Tuân Sở Công Tác


Trang 96
Nha Kỹ-Thuật (NKT) là cơ quan tình báo chiến lược của QLVNCH, là một đơn vị đặc trách tổ chức, hoạt động sưu tầm tin tức tình báo, phản tình báo chiến lược từ nội bộ cộng sản Bắc Việt cũng như trong hậu tuyến địch, những nơi có cơ sở, đơn vị cộng-sản trong và ngoài lãnh thổ VNCH.

Khởi đầu là Phòng 6 TTM do trung tá Lung đảm trách. Trong thời đệ nhất Cộng Hòa là sở Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống và Lực Lượng Ðặc Biệt do đại tá Lê quang Tung làm tư lệnh. Sau cuộc chỉnh biến 11/63 cho đến tháng 4/75 lần lượt chỉ huy bởi các tướng Nghiêm, Quảng, Lam-Sơn, Phú, trung tá Lan, đại tá Hổ và cuối cùng là đại tá Nu. Danh xưng được đổi từ Phòng 6, đến sở Liên Lạc Phủ TổngThống, Lực Lượng Ðặc Biệt,sở Khai thác Ðiạ hình, và cuối cùng là Nha Kỹ Thuật.

Trong thời đệ nhất Cộnghòa, mọi hoạt động được đại tá Tung trực tiếp nhận chỉ thị cũng như phúc trình với Tổng Thống Ngô đình Diệm và cố vấn Ngô đình Nhu. Cũng trong thời gian này, mọi hoạt động được cố vấn và yểm trợ bởi cơquan Trung-Ương Tình-Báo CIA Hoa Kỳ. Sau tháng 11/63 mọi hoạt động đều trực tiếp qua đại tướng TTMT bộ TTM và được cố vấn, yểm trợ bởi cơ quan tình báo quân sự Hoa Kỳ SOG (Study and Observation Group). Các đơn vị, cơ sở thuộc NKT gồm: sở Công Tác, sở Liên Lạc, sở Phòng Vệ Duyên Hải, sở Tâm Lý Chiến, sở Không Yểm và trung tâm huấn luyện Quyết Thắng. Sở Công Tác đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng, đoàn 11, 72 đóng tại Ðà nẵng, đoàn 75 đóng trên Pleiku và đoàn 68 tại Saigon. Các toán trong đoàn công tác được huấn luyện xâm nhập bằng hàng không hay đường bộ vào lòng địch tại Bắc Việt hay ngoại biên Lào, Miên hoặc Thái Lan. Sở Liên Lạc đóng tại Saigon, chiến đoàn 1 tạiÐà Nẵng, chiến đoàn 2 trên Kontum và chiến đoàn 3 tại Ban Mê Thuột. Các toán thuộc sở Liên Lạc xâm nhập vào hậu tuyến địch từ vĩ tuyến 17 trở vào cho đến mũi Cà Mau. Sở Phòng Vệ DuyênHải đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng gồm Lực lượng Hải Tuần thuộc Hải Quân Việt Nam, xử dụng thuyền máy PCF, PT có tốc độ nhanh, hỏa lực mạnh để hoạt động phiá bắc hải phận vĩ tuyến 17. Lực lượng Biệt Hải được huấn luyện thành các toán Người Nhái để xâm nhập vào Bắc Việt bằng đường biển.

Sở Tâm Lý Chiến đóng tại số 7 đường Hồng Thập Tự, Saigon tổ chức và điều hành đài Tiếng Nói Tự Do và đàiGươm Thiêng Ái Quốc. Ngoài ra sở TLC còn có nhiệm vụ gửi cán bộ ra Bắc hoạt động trong lãnh vực tâm lý chiến. Sở Không Yểm đóng tại Saigon thuộc Không Quân Việt Nam để phối trí phi đoàn trực thăng 219, phi đoàn quansát 110 tại Ðà Nẵng trong việc xâm nhập, liên lạc, hướng dẫn và triệt xuất các toán hoạt động trong lòng địch. Trung tâm huấn luyện Quyết Thắng tại Long Thành, Biên Hoà huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các toán, các phương pháp xâm nhập vào đãt địch, hoạt-động nơi hậuphương địch, du kích chiến, ám sát, bắt cóc, phá hoại, chiến tranh tâm lý v.v...

Vì lý do bảo mật, tuy cùng đơn vị, nhiều quân nhân NKT không được phép tiếp xúc hay tìm hiểu nhiệm vụ của một số chiến hữu khác. Các cơ quan, đơn vị NKT đồn trú trên khắp bốn vùng chiến thuật hạn chế tối đa sự liên lạc với các cơ quan quân, dân, chính điạ phương. Vì vậy ít người biết về NKT hoặc chỉ biết mà không hiểu rõ về các hoạt động của NKT. Quân nhân, dân sự được tuyển chọn về NKT đều trải qua một cuộc điều tra tỉ mỉ về quá khứ và liên hệ. Tãt cả đều thuộc thành phần tình nguyện, các chiến sĩ NKT khi nhận nhiệm vụ đều thấu hiểu rằng đó là công tác gian nan nguy hiểm, khi ra đi ít hy vọng trở về an toàn. Bao nhiêu chiến sĩ đã hy sinh trên khắp vùng rừng núi Bắc Việt, ngoại biên và trong lãnh thổ VNCH.

Những chiến công oanh liệt, những thành quả tối quan trọng, các chiến sĩ thuộc NKT chỉ được khen thưởng, tuyên dương âm thầm, kín đáo trong đơn vị. Trải qua 20 năm hoạt động, qua nhiều cấp chỉ huy, giám đóc, đường lối hoạt động của NKT cũng có phần ảnh hưởng bởi các thay đổi trong các cấp lãnh đạo và diễn biến chính trị quốc tế về Việt Nam. Nha Kỹ Thuật đã nhiều lần thay đổi về cơ cấu tổ chức và các hoạt động, tuy nhiên các chiến sĩ NKT luôn luôn vì Tổ Quốc sẵn sàng hy sinh, nêu cao tinh thần phục vụ cho Tự Do, cho Lý Tưởng.

Trần bá Tuấn, K.B.C. số 9, 1988
Ngày Quân Lực 1996

http://socongtac.blogspot.com/

Hoa Kỳ Quyết Định Để Cho Miền Bắc Xâm Lăng Miền Nam-Vanuxem


Hoa Kỳ Quyết Định Để Cho Miền Bắc Xâm Lăng Miền Nam



Người Trung Hoa có một câu châm ngôn:
“Thất trận rồi người ta mới đếm xác chết và mới đi tìm người trách nhiệm.”


Phản ứng của người dân, thường hay trút hết trách nhiệm cho người lãnh đạo hoặc cho người lính chiến. Tại Việt Nam thì cả hai đều có phần trách nhiệm của mình, nhưng cả hai đều không thể làm gì hơn được với hai bàn tay trắng vì đã bị người ta tước hết khí giới từ lâu!
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên không thể sản xuất vũ khí được, do đó trong cuộc chiến, cả hai bên miền Nam và miền Bắc đều bắt buộc phải nhận sự viện trợ quân sự từ bên ngoài. Do vậy, người ta thường nói rằng chỉ cần chấm dứt viện trợ ngoại quốc cho cả hai bên Nam và Bắc thì ngọn lửa chiến tranh ở Việt Nam sẽ yếu dần và đi đến chỗ tàn lụi ngay, cuộc chiến đương nhiên phải chấm dứt. Nhưng cũng có người chỉ đứng về một phía, đã khẳng định quá đơn phương, và khiếm diện rằng chỉ cần người Mỹ, hay đúng hơn là đế quốc Mỹ như người ta đã cáo buộc, chấm dứt mọi viện trợ kinh tế và quân sự cho miền Nam Việt Nam, là miền Bắc sẽ chấm dứt cuộc chiến tranh nầy trong chiến thắng. Và đó là những điều đã xảy ra trên thật tế.
Người ta đã từng cho rằng chiến tranh ở Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc, vì nếu giữa người Việt với nhau thì không chóng thì chầy họ đã có thể đạt được một sự thỏa thuận nào đó với nhau rồi. “Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường”
Nhưng đây là một cuộc chiến tranh giữa các siêu cường quốc, mượn tay người Việt Nam (hay sinh mạng người Việt Nam cũng thế) và ngay trên lãnh thổ Việt Nam, để so tài hơn thua cao thấp với nhau, ngăn chặn nhau không cho bên nào bành trướng thêm ra hơn nữa, vì hai bên không thể trực tiếp đối đầu với nhau được, tránh bị tổn thất nặng có thể đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau. Có điều là cả hai bên đều nuôi dưỡng một mối thù hằn mà nguyên nhân không phải xuất phát từ nước Việt Nam và nước Việt Nam cũng không có gì để mà thiết tha quan tâm đến.


Hoa Kỳ thì "ngăn chận"
Khối Cộng Sản thì "xâm chiếm, bành trướng"
Người ta có thể thấy được rất rõ là Nga và Trung Quốc vẫn không bao giờ che dấu tham vọng xâm chiếm toàn cầu của họ theo đúng hướng chiến lược đã hoạch định trước rất rõ ràng, và nếu Hoa Thịnh Đốn chỉ bo bo theo sách lược “tạo uy tín và bành trướng kinh tế” thì chiến lược đó của Hoa Kỳ hoàn toàn nằm trong thế thủ, bị động. Đặc biệt là ở Á Châu, Hoa kỳ nhất nhất theo thuyết “ngăn chận” các bước tiến của Cộng Sản. Do vậy mà trên mảnh đất đầy hình ảnh đau thương và tàn khốc của cuộc chiến, người ta đã “đóng khuôn” cho miền Nam Việt Nam trong nhiệm vụ phòng thủ thụ động, và các đồng minh lớn của họ không bao giờ muốn cho họ đi ra ngoài khuôn khổ nhiệm vụ đó, trong khi bộ đội Bắc Việt thì được tung ra trên khắp cả 3 nước Đông Dương, từ Lào, Cam Bốt đến Miền Nam Việt Nam, ẩn hình dưới danh nghĩa của lực lượng cách mạng Pathet Lào, Khmer đỏ, và Việt Cộng, để rồi cuối cùng họ cũng phải bỏ cái mặt nạ của họ ra, hiện “nguyên hình” là quân xăm lăng Bắc Việt, là kẻ chiến thắng, để tiến vào Sài Gòn.
Tuy trận tấn công vào tỉnh lỵ Phước Long vào tháng 1-75 của bộ đội Bắc Việt là một cuộc tấn công có giới hạn (mà phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa một phần vì sợ bị nhử vào bẫy có thể bị hao quân và mất thêm chiến cụ, một phần cũng không có đủ lực lượng để đối phó được với một loại tấn công qui mô như vậy, nên không có phản ứng đối kháng mạnh, nhưng họ cũng thu lượm được quá đủ bằng cớ để chứng minh với những ai còn chút nghi ngờ, là “Hoa Kỳ không còn can thiệp vào chiến cuộc nữa”. Và như vậy là Bắc Việt cho tiến hành ngay cuộc tổng tấn công mùa xuân với đầy đủ bảo đảm trong một sự an toàn tuyệt đối.
Rõ ràng là Hoa Kỳ đã khuyến khích Bắc Việt bằng thái độ im lặng và quá thụ động của họ sau vụ tấn công quan trọng vi phạm rất nặng và rất trắng trợn “Hiệp Định Paris 1973 về Ngừng Bắn và Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam”. Thật ra, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã được báo động về thái độ “bất can thiệp” nầy của Hoa Kỳ từ lâu rồi. Trong những tháng 1, 2, và 3-75, đã có nhiều nghị sĩ dân biểu Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam và đã từng xác nhận với Tổng Thống Thiệu là “viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa trong những ngày sắp tới sẽ rất là mong manh trong may rủi”. Mỉa mai thay, viện trợ nầy trước đó đã được Tổng Thống Hoa Kỳ là ông Nixon long trọng tuyên hứa với Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa!!!

Những cuộc vận động của Hoa Kỳ
Tại Guam, Tổng Thống Nixon đã công bố kế hoạch 5 điểm trong sách lược yểm trợ Thế Giới Tự Do của Hoa Kỳ, chính yếu là “cây dù nguyên tử” và viện trợ đầy đủ vô điều kiện cho tất cả mọi quốc gia dân tộc nào chứng minh có quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của mình.
Hiệp Định Paris 1973, cuối cùng rồi cũng được Tổng Thống Thiệu bằng lòng ký tên vào, vì ông không còn có khả năng từ chối thêm lần thứ hai, dù đó chỉ là trong cung cách ngoại giao thôi, nhưng với những lý lẽ vững chắc mà ông đưa ra trước khi ký, Tổng Thống Nixon đã phải đích thân nhận chịu trách nhiệm chẳng những bằng lời nói mà còn cả trên giấy trắng mực đen nữa:
“Hoa Kỳ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa để giúp Việt Nam Cộng Hòa đương đầu với mọi biến cố mà vì không có thiện ý, Bắc Việt sẽ có thể không ngớt tạo ra sau nầy.”


Nếu trước kia Tổng Thống Nixon đã thật lòng đưa ra lời hứa chắc chắn như vậy, không có một hậu ý quanh co ngoằn ngoèo nào, thì sau đó với một anh chàng Kissinger mà ông chưa từng quen biết nhưng vì áp lực từ sự vận động của cánh Do Thái sau khi ông đắc cử, ông đã trở nên bớt nhiệt tình hơn nhiều đối với những gì mà ông đã long trọng cam kết với ông Thiệu.
Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đã xảy ra trong những cuộc thăm viếng sau đó, và ông Thiệu đã phải can thiệp thẳng với Nixon để cho thơ từ công văn của ông, thường không được hồi âm, nay phải được tới tay ông Nixon mà không đi qua sự kiểm duyệt của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Dã tâm của Kissinger, một con người mà ai cũng cho là “bạn”, là “tri kỷ”, sau đó được phát giác tiết lộ ra là: xuyên qua một đệ tam nhân, ông đã có những lời hứa hẹn cũng như thi hành những cam kết không đồng nhứt với từng nhân vật cùng có trách nhiệm trong công tác ngăn chận bước tiến của Cộng Sản Bắc Việt trên bán đảo Đông Dương, như Hoàng Thân Souphana Phouma, Thống Chế Lon Nol và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Thế nhưng, vụ việc gây nhiều tai tiếng “Watergate” đã đưa Nixon ra khỏi Nhà Trắng đồng thời giết chết cả thân thế và sự nghiệp chính trị của ông ta, dẫn đến hậu quả tai hại là những gì ông Nixon đã cam kết, dù là trên giấy trắng mực đen, đã không còn một chút giá trị nào nửa. Và sau đó, vào tháng 8-1973, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu thuận cho tu chính án “Case-Church” nhằm cắt hết ngân khoản dành cho mọi viện trợ quân sự cho các quốc gia Đông Nam Á.



Cộng Sản tiến chiếm miền Nam qua hai cửa ngỏ chính:
Cam Bốt và Lào
Do vậy, việc Mỹ chánh thức hứa giúp thành lập và trang bị quân đội Cam Bốt với quân số 205,000 người phải được hủy bỏ. Hình thành được việc nầy sẽ giúp cho Cam Bốt chẳng những có thừa khả năng dẹp được lực lượng Khmer Đỏ (tất cả cán bộ khung đều là bộ đội Bắc Việt) mà còn lập lại được trật tự trong nước, đuổi các sư đoàn Bắc Việt ra khỏi lãnh thổ Cam Bốt nữa, vì chính các đơn vị xăm lăng Bắc Việt nầy đã tạo ra không khí cách mạng bất ổn ở nông thôn Cam Bốt, sau đó Hoàng Thân Shianouk đã phải thoái vị và nước Cộng Hòa Khmer ra đời.
Điều đáng tiếc là ở Cam Bốt cao trào của giới trẻ mà người ta gọi là “những anh lính chiến giờ thứ 24” đang lên vùn vụt, trong số nầy có những sinh viên và học sinh lớp 5 lớp 6, tình nguyện ra mặt trận, chiến đấu rất anh dũng bằng vũ khí tịch thu được của quân ngoại xâm Bắc Việt. Những người “Khmer Tự Do” nầy (Khmer Krom) đã học và tiêm nhiễm lịch sử Pháp, rất tự tin và đặt hết lòng tin vào lời hứa của Hoa Kỳ, đã nhất tề đứng dậy khi tổ quốc lâm nguy, y như người Pháp chúng ta trong những biến cố cách mạng trong lịch sử vậy. Trong lúc đó tại Thượng Viện Hoa Kỳ, nghị sĩ Fulright lại tuyên bố là cuộc chiến ở Cam Bốt là một “cuộc chiến vô đạo đức!” Với một ít ngân khoản vụn vặt du di được đâu đó, chánh phủ Hoa Kỳ “nhỏ từng giọt” giúp cho Cam Bốt, trong khi những sư đoàn Bắc Việt ồ ạt viện trợ đúng mức cho các đơn vị “Khmer Đỏ” đang thành lập, càng ngày càng lớn mạnh thêm lên. Do đó quân lực Cộng Hòa Khmer bị tiêu hao lần lần để đi đến sụp đổ, và ngày 1-4-75, Thống Chế Lon Nol phải “chạy” khỏi thủ đô Cam Bốt, sau đó Phnom Penh bị thất thủ vào ngày 10-4-75. Cũng trong thời gian nầy, nỗ lực thành lập một chánh phủ “liên hiệp 3 thành phần” tại Vương Quốc Lào bị thất bại và Cộng Sản Pathet Lào lên nắm chánh quyền, tuyên bố không chấp nhận sự có mặt của người Mỹ tại đây.
Người ta thường hay nói chiến tranh ở Việt Nam chỉ là một cuộc nội chiến, rất hạn chế giữa người Việt và người Việt mà thôi. Nhưng đến cuối cùng sự thật cho thấy không phải như vậy. Cam Bốt là mục tiêu chủ yếu, là bàn đạp quan trọng hàng đầu để từ đó Cộng Sản tiến chiếm miền Nam Việt Nam, và theo quan điểm từ đầu của Hà Nội thì mục tiêu không phải chỉ có miền Nam Việt Nam mà phải là toàn bộ bán đảo Đông Dương, vì đó mới là giấc mơ thật sự từ lâu của Hồ Chí Minh.
Việc chiếm giữ các tỉnh miền Đông của cả hai quốc gia Lào và Cam Bốt là chỉ nhằm dọn đường cho công tác tiếp vận của quân đội Bắc Việt. Sau khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, trong thời gian hơn một tháng, hệ thống đường mòn thường gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” được họ cải tiến, mở rộng và trải đá suốt cả tuyến đường, để từ Hà Nội, Bắc Việt có thể đưa quân lính, chiến cụ, đạn dược cũng như xăng nhớt, đến một nơi chỉ còn cách Sài Gòn dưới 100 cây số (Lộc Ninh) mà chỉ mất trên dưới có 5 ngày đường. Các sư đoàn Bắc Việt đóng quân thường xuyên dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt, trên các cao điểm từ Bắc xuống Nam, từ đó lúc nào cũng sẵn sàng tấn công xuống Miền Nam Việt Nam, một lãnh thổ quá dài mà bề ngang quá hẹp, có đoạn dưới 100 cây số tính từ miền núi xuống đến biển, nên thủ đô Việt Nam Cộng Hòa luôn bị đe dọa vì Sài Gòn chỉ cách biên giới Lào-Khmer không quá 100 cây số ngàn, cũng giống y như hiệp ước đình chiến 1919 của nước Pháp chúng ta đã “bị” để cho các đơn vị Đức đóng quân ở vùng Aisne và La Marne vậy.
Ngày 10-4 thủ đô Phnom Penh bị thất thủ, ở Vientiane thì một chánh phủ Cộng Sản đã lên cầm quyền, trong khi Vùng I và Vùng II của Việt Nam Cộng Hòa cũng đã bị rơi vào tay Bắc Việt, như vậy Hà Nội được quá rảnh tay để sẵn sàng đưa quân tràn xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nữa
Nhưng vẫn còn một yếu tố chưa biết rõ được: đó là phản ứng của Hoa Kỳ. Trước đó, ngày 21-3-75, chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt), trong một bản tuyên bố, đã yêu cầu chánh phủ Hoa Kỳ chấm dứt tất cả mọi dính líu quân sự và mọi hành động can thiệp vào việc nội bộ của Miền Nam Việt Nam. Ngày 25-3-75, Tổng Thống Ford gởi đến Sài Gòn tướng Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ. Tướng Weyand có vẻ thuận cho một hành động tiếp ứng tuy hơi muộn nhưng hữu hiệu bằng cách cho lệnh thiết lập hai cầu không vận Bangkok-Saigon và Manila-Saigon, để kịp tiếp vận cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 3-4-75, trong một cuộc họp báo, Tổng Thống Ford tuyên bố là ông sẽ không bỏ rơi Đông Nam Á. Ông nói không nhất thiết ông Thiệu phải rời khỏi chánh quyền, nhưng ông cũng bảo đảm thêm rằng cho dù có một sự thay đổi nào đó của cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa thì sự việc đó cũng không thay đổi được nỗ lực của Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Ngày 10-4-75, ngay lúc Phnom Penh thất thủ, trong bài diễn văn đọc trước Quốc Hội, Ông cho biết là ông có ý định tiếp tục cuộc chiến ở Việt Nam, và tiếp tục ủng hộ chánh phủ Thiệu. Ông đề nghị với Quốc Hội một ngân khoản viện trợ quân sự 722 triệu đô la, và một ngân khoản viện trợ kinh tế là 250 triệu. Các nghị sĩ Stevenson, Humphrey, Jackson, Mc Govern và Kennedy đều chống lại đề nghị nầy. Gần như Quốc Hội Hoa Kỳ đã mặc nhiên bỏ rơi cả ông Ford. Thế là hết ! Hoa Kỳ sẽ không can thiệp, và những quốc gia đã từng ký tên bảo đảm cho việc thi hành Hiệp Định Paris 1973 cũng giữ một sự im lặng hoàn toàn! Còn nước Pháp thì xuyên qua lời tuyên bố của Tổng Trưởng Ngoại Giao tại Dublin, trước một số ngoại trưởng phần đông đều không muốn chen sâu vào việc nội bộ của một nước khác, thì lại tỏ ý muốn thấy Tướng Thiệu rút lui, một điều rất trùng hợp với sự mong muốn của Cộng Sản Bắc Việt, vì dưới con mắt của họ Tướng Thiệu là biểu tượng của một tinh thần chống Cộng cực đoan, chống đến giọt máu cuối cùng.
Như vậy là thật sự Bắc Việt nay đã được rảnh tay trong hành động rồi. Họ đã được bảo đảm là Hoa Kỳ sẽ không còn can thiệp được nữa. Họ cũng đã thấy một sự tán thành ngấm ngầm của các nước khác, không những trong khối Cộng Sản mà còn có cả các quốc gia cấp tiến, tự do nữa, trong đó dĩ nhiên là có cả nước Pháp. Với tất cả mọi điều kiện thuận lợi chánh trị và quân sự như thế, Bắc Việt quyết định cho tiến hành ngay “chiến dịch Hồ Chí Minh”, không cần phải mất thêm thời gian chờ thành lập một “chánh phủ ba thành phần”, để nhanh chóng thôn tính cả bán đảo Đông Dương trên cả hai phương diện quân sự và chánh trị.
Đúng như họ tuyên bố đây là một cơ hội ngàn năm mới chỉ có một lần !
Vậy liệu người ta có nghi ngờ là người Mỹ đã phản bội đồng minh ? Nhân vật chính yếu liên can trong nội vụ là Tổng Thống Thiệu, người biết rõ nhiều về những lời hứa hẹn, cam kết, và thi hành. Ông đã công khai nêu rõ trước dư luận mà Hoa Kỳ không dám có một tiếng trả lời, có chăng chỉ là những lời an ủi cam kết quá muộn màng của một mối tình bạn bè, một mối tình loại “qua đường!”
Ông Thiệu là người không muốn chơi trò người hùng, cũng không thích biểu tình hoan hô rầm rộ, nhưng rất nhạy cảm với lòng tin tưởng sâu đậm của đồng bào miền Nam, bây giờ ván bài đã ngã ngũ, ông đã thua cả về chánh trị lẫn quân sự, nên ông quyết định phải rời quê hương mà ông đã từng hiến dâng tất cả. Với một tâm hồn chết lặng ông nói lên những lời từ biệt cuối cùng. Những lời lẽ thật cảm động của ông được truyền đi trên đài phát thanh làm cho những người dù cứng lòng đến đâu cũng phải nhỏ lệ, ngay những người đã từng muốn ông phải từ chức cũng vậy. Ông ra đi, mang theo sự tin yêu và lòng mến phục của dân chúng miền Nam mà từ đây không có ông, họ sẽ cảm thấy mất mát một cái gì ...



Đối với người Mỹ, ông đã có những sỉ vả thật dữ dội và nặng nề:
-Tôi đã nói với họ (Hoa Kỳ) rằng: Các ông muốn rút chân ra khỏi cuộc chiến ở Việt Nam trong danh dự, mà các ông đòi hỏi chúng tôi những điều thật vô lý không thể làm được chút nào. Đánh giặc mà viện trợ quân sự cứ nay bị cắt mai bị xén mốt bị cúp mãi như thế, thì có khác nào chỉ cho tôi mỗi ngày có 3 đồng mà bảo tôi phải ăn tiêu như một ông hoàng hay một người khách du lịch sang trọng! Các ông muốn chúng tôi hôm nay với một “xu ăn mày” phải làm được những gì mà ngày hôm qua các ông không sao làm được với ngân khoản 6 tỷ đô la ...! Tôi đã nói với họ rằng câu hỏi duy nhất hiện giờ là liệu Hoa Kỳ có quyết định giữ những gì mà Hoa Kỳ đã cam kết với Việt Nam Cộng Hòa hay không? Và liệu những lời nói và chữ ký của Tổng Thống Hoa Kỳ còn có chút giá trị gì nữa hay không!

Thế là quá rõ, Hoa Kỳ thật sự đã phản bội.....
Ngạo mạn và ngu xuẩn, lưỡng viện Hoa Kỳ đã nói lên sự vui mừng của họ về sự từ chức của ông Thiệu, vì họ nghĩ nhờ đó sẽ có khả năng “đạt được một nền hòa bình nào đó trong thương lượng” với Cộng Sản, trong giới hạn một thời gian nào đó, “với đường lối chánh trị mềm dẻo hơn, để làm giảm đi những chết chóc vô ích, và nhất là để bảo vệ cho những người Mỹ hiện còn tại miền Nam Việt Nam”. Nước Pháp cũng có một thái độ tương tự, vì hoàn toàn không nắm vững được tình hình và cũng vì quyền lợi của chính nước Pháp. Đối với Hoa Kỳ, trên thế giới nầy tất cả đều có thể bị mất hết, chỉ riêng có người công dân Mỹ, được coi như thần thánh, là không thể mất được.

Ngũ Giác Đài không chấp nhận như vậy
Các cấp chỉ huy quân sự của Ngũ Giác Đài cũng như các cấp quân nhân đã từng tham chiến bên cạnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không đồng ý về những hành động của Hoa Kỳ, vì tình cảm gắn bó với người chiến hữu Việt Nam cũng như gắn bó với quốc gia nầy, giống như người Pháp chúng ta vậy. Họ có cố gắng thử giúp đỡ cho Việt Nam một cái gì đó, nhưng người ta đã ngăn cấm họ. Họ chỉ còn có một cách là càu nhàu, và sự hằn thù trong căm lặng nầy mãi mãi sẽ là một yếu tố của tình trạng phân hóa tại Hoa Kỳ.
Bốn năm trước đó, dựa theo bản tuyên ngôn Guam của Tổng Thống Nixon, Ngũ Giác Đài đã soạn thảo một quan niệm mới cho chiến lược ở Á Châu. Bây giờ thì bắt buộc họ phải duyệt xét lại để giảm bớt khả năng tiềm lực quân sự của Hoa Kỳ: đó là bỏ cả các căn cứ ở lục địa Á Châu và các quốc gia đồng minh “nhược tiểu”, dùng Nhật Bản và Úc Châu như những pháo đài phòng thủ cho lục địa Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. Dầu sao, theo họ nói, đó là một quyết định cấp quốc gia mà họ là những người chịu trách nhiệm, không thể cưỡng lại được: “quân nhân chúng tôi trước quyết định như vậy không thể làm gì hơn là phải thi hành, dù dư luận Mỹ có cho rằng Hoa Kỳ không nên sửa đổi chiến lược như vậy.”

Hoa Kỳ đã không làm đúng lời hứa của họ. Họ đã phản bội những người mà chính họ đã đưa vào cuộc chiến, một cuộc chiến mà họ chẳng những phải tốn quá nhiều đô la mà còn phải hy sinh gần 60 ngàn quân nhân các cấp (chưa tính thương binh) để chỉ đem về một “con số không” to tướng. Nói như thế có gì quá đáng lắm không?
Tướng Westmoreland, cựu chỉ huy trưởng lực lượng Mỹ tại Việt Nam thì phát biểu có phần nào nhẹ lời hơn cho Hoa Kỳ, nhưng cũng đã quy trách nặng nề cho giới chánh trị về hành động làm mất hết danh dự của Mỹ:

“Miền Nam Việt Nam phải chăng không thể tránh được một sự chiến bại? Vâng, đúng như vậy. Nhưng chúng ta phải xét lại tình hình: Bắc Việt đã vi phạm hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973, Hoa Kỳ hoàn toàn bất lực trên phương diện chánh trị, và các quốc gia có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành Hiệp Định thì hoàn toàn im lặng không nhúc nhích.”

Người ta phải nhìn những cảnh cướp xe, hôi của, dọn sạch nhà cửa, phòng ốc hay kho tàng của người Mỹ tại Sài Gòn, thì mới thật sự thấy được mức độ thù ghét Hoa Kỳ của cả một dân tộc. Người ta phải nhìn cảnh ông Martin, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc rời khỏi Việt Nam sau khi cho di tản xong xuôi người Mỹ cuối cùng, thì mới thấy được cả một sự thẹn thùng nhục nhã của Hoa Kỳ trên nét mặt xanh xao như người chết của ông. Và người ta cũng phải nhìn thấy cảnh một người Việt Nam kéo lê bằng hai ngón tay lá cờ Mỹ to lớn của tòa Đại Sứ Mỹ để dìm xuống rạch những “50 sao và 13 vạch” mà người Mỹ thường hãnh diện.
Tổng Thống Hoa Kỳ, Ông Ford, đã từng nói: “Chúng tôi không thể bỏ được những người bạn của chúng tôi.”
Nhưng nói là nói như vậy, mà họ lại không làm đúng như vậy!

Tác giả: Vanuxem, cựu Trung Tướng Quân Lực Pháp
Phỏng dịch: Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa




Tổng thống Nixon từng đe dọa “cắt đầu” Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Wednesday, June 24, 2009



Nguồn: BBCVietnamese.com
'Tôi không rõ đe dọa đó có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả cắt đầu của y nếu cần thiết'. (Lời Tổng thống Nixon đe dọa Tổng thống Thiệu).
***
Các cuốn băng ghi âm từ năm 1973 được giải mật cho thấy Tổng thống Richard Nixon đã muốn đạt được thỏa thuận tại Hòa đàm Paris với Hà Nội bằng mọi giá và gây sức ép rất lớn đối với Sài Gòn.
Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu được Thư viện Nixon công bố hôm thứ Ba vừa qua có lời của Tổng thống Nixon nói với Cố vấn An ninh Henry A. Kissinger về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Nixon nói để bắt Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ký vào hòa đàm, ông sẵn sàng 'cắt đầu y nếu cần thiết' (cut off his head if necessary).
Bài của Shaun Tandon trên AFP hôm 23 tháng 06 thì mô tả ông Nixon đã yêu cầu ông Kissinger nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa rằng Quốc hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không đồng ý với kết quả hòa đàm.
Nhưng có vẻ như ông Nixon sẵn sàng làm mạnh hơn nếu lời đe dọa cắt viện trợ không đạt mục đích.
Các đoạn băng cũng cho thấy một thứ ngôn ngữ rất 'Kissinger' mà Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ dùng để nói về đồng minh.
Ông Kissinger nói với Tổng thống về Ngoại trưởng Trần Văn Lắm của Nam Việt Nam, người có mặt khi đó tại Paris để dự họp.
Dùng từ tục để gọi ông Lắm là 'an ass', ông Kissinger nói ' Y cũng chẳng làm được gì cả đâu'.
Cũng chỉ tháng trước, ông Nixon đã tiếp Ngoại trưởng Nam Việt Nam và hứa sẽ 'làm tất cả để giúp Nam Việt Nam' và 'nền độc lập' của nước này.
Ông Nixon còn nói: 'Điều chính yếu là cần phải nhớ: chúng tôi biết ai là những người bạn thực thụ'.
Nhà nghiên cứu về Nixon, ông Ken Hughes từ đại học Virginia nói ông bị chấn động khi nghe đoạn ghi âm mà ông Nixon nói về ông Thiệu.
Báo New York Times 23/06/2009 trích lời ông Hughes, người nghiên cứu các băng ghi âm của nhiều tổng thống Mỹ, nói cuộc đàm thoại trên càng làm ông tin tưởng vào quan điểm rằng cả ông Nixon, ông Thiệu và ông Kissinger đều biết trước rằng cuộc ngưng bắn không thể duy trì nổi.
Đó cũng chẳng phải là 'hòa bình trong danh dự' như ông Nixon mô tả, mà chẳng qua chỉ là cách để Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến mà 'không mất mặt'.
Vẫn các báo Mỹ trích lời Ken Hughes tin rằng các nhân vật trong cuộc biết rằng Bắc Việt Nam sẽ vi phạm thỏa thuận ngưng bắn và tiến chiếm miền Nam.
Các đoạn băng được ghi bằng các microphone mật đặt trong Phòng Bầu Dục từ tháng 1 đến tháng 2/1973.
Theo New York Times, các cuốn băng rọi thêm ánh sáng vào một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Mỹ, gồm cả lễ đăng quang lần thứ nhì của Tổng thống Nixon, cuộc ngưng bắn tại Việt Nam, vụ xử bảy người đột nhập vào trụ sở đảng Dân chủ tại khu nhà Watergate.

Friday, July 3, 2009

THOMAS JEFFERSON-TÁC GIẢ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP HOA KỲ

THOMAS JEFFERSON (1743 - 1826 )

TÁC GIẢ BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP HOA KỲ

http://vietsciences.free.fr/lichsu/images/declaration_of_independence.jpg

Phạm Văn Tuấn

Ông Thomas Jefferson là một nhà ngoại giao, một nhà lý thuyết chính trị, vị sáng lập ra Đảng Dân Chủ Hoa Kỳ nhưng ông được ghi nhớ do chức vụ Tổng Thống thứ ba của Hoa Kỳ và ông cũng là tác giả “Bản Tuyên Ngôn Độc Lập”.

Ông Thomas Jefferson đã tin tưởng rằng “những người nào chịu khó lao động trên mặt đất là những người được Thượng Đế chọn lựa”. Xã hội lý tưởng của ông vào thời đại đó là một quốc gia gồm các chủ trại sinh hoạt dưới sự kiểm soát tối thiểu của chính quyền. Ông Thomas Jefferson tin tưởng rằng đa số người dân có thể tự quản và nên giữ cho chính quyền vừa đơn giản, vừa ít phí phạm. Do lòng yêu chuộng Tự Do, ông đã tranh đấu cho các nền tự do ngôn luận, báo chí, tôn giáo và các tự do dân sự khác. Ông mạnh dạn ủng hộ việc thêm vào Hiến Pháp Hoa Kỳ đạo luật Dân Quyền (the Bill of Rights).

Trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông Jefferson, lãnh thổ Hoa Kỳ đã tăng gấp hai diện tích nhờ mua lại vùng đất Louisiana và Hoa Kỳ đã ở vị thế trung lập trong khi các đạo quân của Napoléon đánh chiếm nhiều nơi tại châu Âu.

Ông Thomas Jefferson còn có nhiều tài năng đặc biệt khác. Ông là một trong các vị kiến trúc sư hàng đầu của thời đại. Chính ông vẽ kiểu cho Điện Capitol của thủ phủ tiểu bang Virginia, vẽ đồ án cho trường Đại Học UVA (University of Virginia) và họa đồ tòa dinh thự Monticello của ông. Ông cũng chơi giỏi đàn vĩ cầm trong các ban nhạc thính phòng và do quý trọng bộ môn Hội Họa, ông đã thu xếp để nhà điêu khắc lừng danh người Pháp Jean Houdon tới Hoa Kỳ nặn tượng cho ông George Washington.

Ngoài ra ông Thomas Jefferson còn là Chủ Tịch của Hội Triết Học Mỹ Quốc (the American Philosophical Society), một tổ chức bao gồm nhiều công cuộc khảo cứu Khoa Học và Văn Hóa. Bộ sưu tập 6,400 cuốn sách của ông đã là phần chính của Thư Viện Quốc Hội thời đó.

Ông Thomas Jefferson là một luật gia xuất sắc, đã đề nghị nhiều đạo luật hữu ích, viết ra nhiều tác phẩm với tinh thần của một công dân cởi mở, thực tiễn, hướng về đại chúng. Chính nhờ ông mà hiện nay tại Hoa Kỳ, hệ thống tiền tệ theo cách tính thập phân được sử dụng.

Ngày nay, mọi công dân Hoa Kỳ thụ hưởng được rất nhiều điều tốt lành phần lớn là do lòng tận tụy của ông Thomas Jefferson đối với các nhân quyền (human rights). Chính ông Thomas Jefferson đã hoạch định một loại chính quyền mà 37 năm về sau, trong bài Diễn Văn tại Gettysburg, ông Abraham Lincoln đã mô tả chính quyền Hoa Kỳ phải là “của Dân, do Dân và vì Dân”.


1- Thuở thiếu thời tại Virginia.

Cậu Thomas Jefferson chào đời ngày 13 tháng 4 năm 1743 tại Shadwell, một miền đất đỏ phía tây của hạt Albemarle, Virginia, gần ngọn đồi mà sau này có tòa nhà Monticello. Cha của cậu, ông Peter Jefferson, là một người đo đất có gốc tổ tiên miền Welsh, còn bà mẹ, Jane Randolph, thuộc một gia đình quý tộc cổ của miền Virginia. Thomas là người con thứ ba và là con trai lớn của gia đình gồm 4 trai 6 gái. Phần lớn những người anh chị em này đã chết khi tuổi còn thơ. Thomas đã trải qua 7 năm trong số 9 năm đầu tiên tại Tuckahoe, một nông trại của gia đình Randolph bên bờ sông James, gần Richmond, tiểu bang Virginia.

Năm Thomas lên 9 tuổi, gia đình Jefferson dọn trở về Shadwell và tại nơi này, cậu Thomas đã tập đọc và tập viết tại trường học và cậu cũng được cha dạy kèm. Ông Peter đã dạy cho con học cách câu cá, cách săn bắn gà lôi rừng (wild turkeys), săn hươu nai gần dòng sông Rivanna cùng cách cưỡi ngựa. Cậu Thomas cũng học kéo đàn vĩ cầm và biết yêu chuộng âm nhạc từ dạo đó.

Khi Thomas được 14 tuổi, ông Peter qua đời. Cậu Thomas trở nên gia trưởng vì là con rai lớn trong nhà. Cậu thừa hưởng hơn 1,000 mẫu đất cùng với hơn 20 người nô lệ, trong khi gia sản do người quản gia tên là John Harvie trông nom.


2- Học vấn.

Cậu Thomas Jefferson bắt đầu đi học từ khi được 5 tuổi rồi khi lên 9 tuổi, vào ở nội trú trong trường học điều khiển do Mục Sư William Douglas, một vị tu sĩ gốc Tô Cách Lan. Về sau, cậu Thomas còn ghi nhớ rằng các loại bánh nướng trái cây (pies) của ông Douglas ngon tuyệt vời và các bài giảng của ông cũng rất xuất sắc, ngoại trừ về văn học cổ điển.

Ngoài các môn học thông thường, cậu Thomas còn được học về tiếng La Tinh, tiếng Hy Lạp, tiếng Pháp. Sau khi cha chết, Thomas theo học ngôi trường gần Charlottesville của Mục Sư James Maury, một tu sĩ theo Anh Cát Giáo và cũng là một học giả. Cậu được huấn luyện về lòng nhân đạo và về niềm tin vào Thượng Đế nhưng cậu không hoàn toàn tin tưởng vào một tổ chức tôn giáo nào.

Năm 1760, vào tuổi 16, Thomas Jefferson theo học Đại Học Williams and Mary tại Williamsburg. Đây là thủ đô của miền thuộc địa Virginia với dân số thời đó chỉ vào khoảng 1,000 người. Thomas làm quen với xã hội thành thị và trong 2 năm trường, cậu học về Toán học, Văn chương và Triết học với Tiến Sĩ William Small, một học giả gốc Tô Cách Lan. Năm 1762, Tiến Sĩ Small đã thu xếp để Thomas Jefferson học luật với vị Thẩm Phán George Wythe, một trong các vị luật gia uyên thâm nhất của địa phương. Ông George Wythe đã gây ảnh hưởng tới Thomas Jefferson rất nhiều và chính ông Wythe sau này cũng là một trong các vị ký tên vào Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.

Nhờ sự quen biết với hai ông Small và Wythe, Thomas Jefferson được giới thiệu với Thống Đốc Francis Fauquier. Bốn người này thường trải qua các buổi chiều tại tư dinh của Thống Đốc, bàn luận về thời cuộc cũng như dạo các bản nhạc thính phòng. Cũng nhân dịp này, Thomas Jefferson được gặp Patrick Henry.

Trong thời gian học môn Luật với Thẩm Phán Wythe, Thomas Jefferson đã quan tâm tới sự căng thẳng chính trị giữa nước Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ. Cuộc chiến tranh Bẩy Năm (1756-63), hay còn được gọi là cuộc chiến tranh Pháp và người Da Đỏ (the French and Indian War) đã loại người Pháp ra khỏi nước Ấn Độ và lục địa Bắc Mỹ. Người Pháp đã bị người Anh thay thế và thế lực Anh đã lấn át tại phía tây bán cầu và trên các mặt biển. Nước Anh nhờ thế đã thụ hưởng được sự phát triển thương mại trên rất nhiều lãnh thổ. Năm 1760, Vua George III lên ngôi nhưng do sự bất lực của nhà Vua này, đã sinh ra các bất ổn đối với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.

Tại miền Bắc Mỹ, các doanh nhân thường buôn lậu với các kẻ địch và các quốc hội lục địa đã không cung cấp nhân lực và tiếp liệu cho chính quyền Anh trong khi số nợ nần của nước Anh đã tăng lên do việc quản trị các vùng đất mới. Để có tiền, Quốc Hội nước Anh đã thông qua Đạo Luật Tem Thuế (the Stamp Act) vào tháng 3-1765 để gia tăng lợi tức cho nước Anh. Khi đạo luật này được công bố, Thomas Jefferson đã được nghe Patrick Henry dùng lời hùng biện, đả kích sự bất công và cho rằng Quốc Hội Anh không có quyền đánh thuế các thuộc địa Bắc Mỹ. Sau này, Thomas đã kể lại rằng: “Đối với tôi, ông Henry đã nói hùng hồn giống như Thi Hào Homer đã làm thơ vậy”.

Năm 1767, Thomas Jefferson được nhận vào Luật Sư Đoàn và bắt đầu hành nghề luật sư một cách khá thành công. Ông đã chia thời gian qua lại hai địa điểm là Williamsburg và Shadwell. Tại nơi sau này, ông đã vẽ kiểu và trông coi xây dựng tòa nhà Monticello trên một ngọn đồi gần đó.

Thomas Jefferson cưới bà góa phụ Martha Wayles Skelton năm 1772. Bà này là con gái của ông John Wayles, một luật sư danh tiếng sống gần Williamsburg. Theo chuyện kể lại, chính nhờ âm nhạc mà ông Thomas đã chiếm được cảm tình của bà Martha vì một nhân vật khác cũng theo đuổi bà Martha đã phải bỏ cuộc khi nhìn thấy hai người hòa đàn vĩ cầm và dương cầm (harpsicord) . Sau đó, gia đình Jefferson đã an cư tại Monticello, dù cho tòa nhà lớn này chưa xây xong. Họ có 1 con trai và 5 con gái nhưng chỉ có hai người con gái sống nổi tới tuổi trưởng thành là Martha (1772-1836) và Mary (1778-1804).
Bà Martha Jefferson qua đời năm 1782, sau 10 năm kết hôn. Ông Thomas Jefferson đã không lập gia đình nữa mà lo chăm sóc hai người con gái.


3- Nhà chính trị thuộc địa.

Tháng 5 năm 1769, ông Thomas Jefferson được bầu vào Viện Lập Pháp xứ Virginia (the House of Burgesses) và đã phục vụ tại nơi này cho tới năm 1775. Ông Jefferson không phải là một nhà hùng biện nhưng đã tỏ ra là một nhà viết luật nhiều khả năng, với biệt tài dùng tiếng Anh vừa đơn giản, vừa rõ ràng mà các nhà lập pháp khác có kinh nghiệm cũng phải sớm công nhận.

Trong các năm còn trẻ, Thomas Jefferson đã thừa hưởng đất đai của cha để lại, gồm các miền đồi núi Piedmond thuộc xứ Virginia và do đó, đã liên lạc thường xuyên với các người quý tộc Tidewater và được chấp nhận vào giai cấp này, nhưng tư tưởng chính trị của ông Jefferson lại thiên về những người di dân gốc Đức, Ái Nhĩ Lan và Tô Cách Lan, là những kẻ khai phá các miền đất hoang thành những nông trại nhỏ. Tới khi được bầu vào Viện Lập Pháp Virginia, ông Jefferson là nhân viên trong nhóm chính trị gia gồm Patrick Henry, Richard Henry Lee và Francis Lightfoot Lee. Những nhân vật này thường tranh cãi với các nhà quý tộc Tidewater trong các buổi thảo luận về các vấn đề giữa nước Anh với các xứ thuộc địa Bắc Mỹ.

Vào các năm về trước, việc chống đối đạo luật Tem Thuế tại các xứ thuộc địa đã khiến cho các vấn đề tài chính của nước Anh không giải quyết được. Vì vậy vào năm 1767, do sự thúc giục của Giám Đốc Ngân Quỹ Charles Townshend, Đạo Luật Townshend đã được thông qua theo đó thuế được đánh lên các món hàng như trà, giấy, thủy tinh, chì, sơn mà người thuộc địa Bắc Mỹ phải nhập cảng từ nước Anh. Để họp bàn chống lại Đạo Luật Townshend, các người yêu nước xứ Virginia thường gặp nhau tại căn phòng Apollo của nhà hàng nổi danh Raleigh Tavern thuộc thành phố Williamsburg, họ chống lại đạo luật kể trên và chủ trương không nhập cảng hàng hóa từ nước Anh.

Năm 1774, việc tranh cãi với nước Anh lại dội lên. Ông Jefferson đã đứng đầu việc tổ chức chống nhập cảng và kêu gọi tất cả các xứ thuộc địa nên họp lại với nhau và cùng bày tỏ phản ứng. Ông được chọn làm đại biểu cho hạt (county) Albemarle tại Đại Hội Virginia lần thứ nhất, rồi từ đại hội này, các đại biểu của xứ Virginia được bầu ra để tham dự Quốc Hội Lục Địa thứ nhất, nhưng vì bị bệnh và không thể tham dự các buổi họp được, ông Thomas Jefferson đã gửi tới Đại Hội các bài viết nói rõ quan điểm của mình đối với cuộc khủng hoảng.

Thomas Jefferson đã lý luận rằng Quốc Hội Anh không có quyền kiểm soát các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Ông đã so sánh các người Anh đầu tiên định cư tại Mỹ Châu giống như những người Saxons đầu tiên tới nước Anh hàng trăm năm về trước, và những người Saxons này đã xuất phát từ miền đất mà ngày nay là nước Đức. Như vậy, các người định cư ban đầu khi tới châu Mỹ, đã dùng tới các quyền tự nhiên (their natural rights) của họ để di dân. Ông Jefferson cho rằng các thuộc địa hiện nay có thể trung thành với nhà Vua Anh vì họ được tự do lựa chọn sự trung thành đó. Vào thời bấy giờ, phần lớn các cư dân của xứ Virginia đã coi các quan điểm của ông Thomas Jefferson là thái quá. Các quan điểm này đã được in vào năm 1774 thành một tập sách mỏng có tên là “Quan điểm tóm lược về các quyền lợi của Bắc Mỹ thuộc Anh” (A Summary View of the Rights of British America).

Mùa xuân năm 1775, ông Thomas Jefferson tham dự Đại Hội Virginia thứ hai (the Second Virginia Convention). Đại Hội này đã chọn ông làm một trong các đại biểu để đi họp tại thành phố Philadelphia. Quốc Hội Virginia đã nhờ ông Jefferson trả lời một bức thư hòa bình của Lord North, vị Thủ Tướng Anh thời đó. Thủ Tướng North đã đề nghị rằng Quốc Hội Anh sẽ không đánh thuế các người định cư tại Bắc Mỹ nếu những người này chịu đánh thuế chính họ. Dù cho thư trả lời đã ôn hòa hơn là tập sách “Quan Điểm” nhưng ông Jefferson đã bác bỏ đề nghị của Thủ Tướng Anh và nhấn mạnh rằng một chính quyền phải được lập nên tại Bắc Mỹ cho các người thuộc địa và không phải cho người Anh. Sau đó, Quốc Hội Lục Địa đã chấp thuận bức thư của ông Jefferson gửi cho Thủ Tướng North.


4- Tác giả Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và nhà làm luật Virginia.

Tại Quốc Hội Lục Địa, ông Thomas Jefferson đã là một nhân vật dẫn đầu. Sau khi cuộc Chiến Tranh Cách Mạng xẩy ra, ông Jefferson được yêu cầu thảo ra “Bản Tuyên Bố các nguyên do và sự cần thiết phải cầm lấy võ khí” (a Declaration of the Causes and Necessity of Taking up Arms). Quốc Hội sau đó đã thấy rằng bản thảo này “quá mạnh” nên đã nhờ một nhân vật ôn hòa hơn là ông John Dickinson viết ra một bản thay thế nhưng văn bản mới gồm phần lớn các quan điểm của ông Jefferson.

Vào mùa xuân năm 1776, ý kiến của các đại biểu Quốc Hội Lục Địa càng nghiêng về nền Độc Lập của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ. Ngày 7 tháng 6 năm đó, Richard Henry Lee thuộc xứ Virginia đã đưa ra một bản nghị quyết nổi danh, đó là “Các Thuộc Địa Liên Hiệp này phải có quyền và phải là các xứ tự do và độc lập” (these United Colonies are, and of right ought to be, free and independent states). Sau đó, Quốc Hội Lục Địa đã chỉ định một ủy ban để soạn thảo ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ủy Ban này gồm: Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin, Roger Sherman và Robert Livingston. Ủy ban đồng thanh cử ông Jefferson viết ra bản thảo và đã đồng ý với rất ít thay đổi. Ngày 2 tháng 7, Quốc Hội Lục Địa bắt đầu tranh luận và Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được chấp thuận vào ngày 4 tháng 7 năm 1776.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là công trình lừng danh nhất của ông Thomas Jefferson. Bản văn đó đã diễn tả được tính hùng biện với lời văn mạnh mẽ theo pháp lý, biện hộ thế đứng của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Bản văn đó cũng xác nhận niềm tin vào các quyền lợi tự nhiên của tất cả mọi người. Các ý tưởng này phần lớn không phải là mới lạ vì theo lời ông Jefferson, mục đích của ông là đặt lương tri của nhân loại vào việc cứu xét đề tài, bằng những lời văn vừa bình dị, vừa cương quyết khiến cho mọi người cùng đồng ý, và bản văn đó cũng là cách mô tả tinh thần độc lập của người Mỹ.

Tháng 9 năm 1776, ông Thomas Jefferson rời khỏi Quốc Hội Lục Địa và sau đó, lại phục vụ tại Viện Dân Biểu Virginia (the Virginia House of Delegates). Ông Jefferson tự nhận không có khả năng phục vụ Quân Đội trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, nhưng lại có thể trở thành một nhà làm luật hữu ích. Chỉ sau 5 ngày phục vụ trong ngành lập pháp, ông Jefferson đã bắt đầu một chương trình cải cách rộng lớn, đầu tiên liên quan tới việc phân phối đất đai.

Tại xứ Virginia, một số người giàu có đã chiếm giữ nô lệ và kiểm soát các vùng đất rộng lớn khiến cho việc phân phối đất đai không công bằng. Chính quyền thuộc địa địa phương lại hạn chế quyền bầu cử và giới hạn các cơ hội giáo dục. Ông Thomas Jefferson được bầu vào Hội Đồng Duyệt Xét (the Board of Revisors). Trong hai năm, ông đã xây dựng được một bộ luật mà ông hy vọng rằng sẽ xóa đi mọi cơ cấu quý tộc cổ xưa và tương lai, để đặt nền móng cho một chính phủ của nhân dân.
Giai cấp quý tộc căn cứ vào tài sản và gia đình đã dần dần phải nhường chỗ cho “giai cấp quý tộc của tài năng và đức hạnh”, vì các đạo luật sau của ông Thomas Jefferson : (1) Đạo luật tiêu hủy luật giới hạn về thừa kế (the bill abolishing entails), (2) đạo luật tiêu hủy quyền thừa kế của con trưởng (the bill abolishing primogeniture) , (3) đạo luật tự do tôn giáo (the statute for religious freedom) nhờ đó đã bảo đảm sự tự do trí tuệ và phân cách “nhà thờ” và “quốc gia”, hủy bỏ các đặc quyền của “nhà thờ Anh Cát Giáo” (the Anglican church), giới tu sĩ không còn được hưởng lương bổng của chính quyền và người dân Virginia không còn phải đóng thuế để yểm trợ nhà thờ nữa, (4) đạo luật về giáo dục tổng quát (the bill for general education) đã cho phép mọi người, bất kể tài sản hay nguồn gốc chủng tộc, đều được hưởng nền giáo dục miễn phí. Đạo luật về giáo dục này tuy chưa được thông qua ngay, nhưng đã là nền móng cho các hệ thống trường học công lập và thư viện miễn phí của Hoa Kỳ.

Vào các thập niên trước, chỉ những người có đất đai mới có quyền đi bầu cử nhưng nhờ các đạo luật do ông Jefferson đề xướng, các vùng đất rộng lớn được chia nhỏ ra, khiến cho nhiều người đã có đất canh tác và số người đi bầu cũng tăng lên. Ông Thomas Jefferson cũng đưa ra các đạo luật cho phép các di dân có được quốc tịch Mỹ sau khi đã sinh sống tại Virginia hai năm. Ngoài việc cứu xét lại hệ thống luật pháp của xứ Virginia và luật đất đai, ông Jefferson còn sửa đổi cả Hình Luật (Criminal Law). Ông Jefferson còn dự tính chấm dứt chế độ nô lệ nhưng ông đã không làm mạnh vì cho rằng người dân của xứ thuộc địa này chưa sẵn sàng với việc cải cách đó. Dù sao, ông Thomas Jefferson vẫn tin tưởng rằng chế độ nô lệ thì sai nhầm về luân lý và không thể tồn tại vĩnh viễn tại các xứ Bắc Mỹ.


5- Thống Đốc Tiểu Bang và Dân Biểu Quốc Hội.

Trong 2 năm 1779 và 1780, Quốc Hội xứ Virginia đã bầu ông Thomas Jefferson làm Thống Đốc tiểu bang 2 lần, mỗi nhiệm kỳ 1 năm. Trong thời gian nhậm chức của ông, xứ Virginia đã phải chịu đựng nhiều hậu quả nặng nề của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng. Theo lời yêu cầu của Tướng George Washington, ông Jefferson đã lấy bớt các tài nguyên và nhân lực bảo vệ xứ Virginia để dùng trợ giúp Quân Đội Cách Mạng và trong số các nhân vật tới Virginia tuyển quân, có ông James Monroe và cũng vì thế, hai ông Monroe và Jefferson đã trở nên đôi bạn lâu năm.

Năm 1781, các đoàn quân Anh đánh chiếm xứ Virginia. Miền này đã không thể chống cự được và chính ông Jefferson cũng suýt bị bắt vào ngày 4 tháng 6 năm đó, khi các đội quân của Tướng Banastre Tarleton càn quét miền Monticello. Ngày 2 tháng 6, nhiệm kỳ thống đốc của ông Jefferson chấm dứt. Ông Jefferson bị chỉ trích là đã không thể chống cự được Quân Đội Anh và sự việc này đã làm tổn thương danh dự của ông Jefferson trong nhiều năm, dù cho một cuộc điều tra về sau đã xóa đi sự kết tội này. Sau đó, ông Thomas Nelson Jr. là vị sĩ quan đứng đầu đoàn Dân Quân của xứ Virginia đã thay thế ông Jefferson làm Thống Đốc.

Ông Thomas Jefferson trở lại Monticello, lòng cay đắng và đã quyết định sẽ mãi mãi từ bỏ mọi công vụ. Ông bắt đầu viết tác phẩm: “Ghi chép về Tiểu Bang Virginia” (Notes on the State of Virginia, 1784-85). Đây là cuốn sách chứa đựng rất nhiều dữ kiện của xứ Virginia và nhiều niềm tin và lý tưởng của ông Jefferson.

Tháng 9 năm 1782, bà vợ Martha của ông Jefferson qua đời, đã khiến cho ông vừa điên dại, vừa rối trí. Trong nhiều tháng trường, ông Jefferson đã không cầm bút viết gì cả và nói chuyện với rất ít người quen. Ông đã nói với bạn bè về cái chết của vợ: "một sự kiện duy nhất đã xóa sạch mọi chương trình của tôi và đã đặt tôi vào một khoảng trống mà tôi không còn tinh thần nào để lấp đầy nữa".

Năm 1783, ông Thomas Jefferson được bầu vào Quốc Hội. Ông nhận nhiệm vụ này bởi vì ông cho rằng công vụ sẽ khiến cho tinh thần ông ra khỏi thảm kịch cá nhân. Trong thời gian làm việc tại Quốc Hội, ông Jefferson lại bận rộn với nhiều công việc làm luật nhưng lần này, trên tầm vóc quốc gia. Ông đã là chủ tịch của nhiều ủy ban. Ông đã viết ra nhiều bản phúc trình quan trọng như:

(1) Phúc trình về chính quyền dùng cho lãnh thổ phía Tây (On Government for the Western Territory): đây là tài liệu căn bản cho sự phát triển của Hoa Kỳ. Ngay từ đầu cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, nhiều xứ thuộc địa đã tranh giành các miền đất thuộc phía tây của rặng núi Appalachian. Dưới sự lãnh đạo của ông Thomas Jefferson, tiểu bang Virginia đã từ bỏ việc giành đất từ năm 1784 và các tiểu bang khác cũng noi theo, nhờ đó Lãnh Thổ Tây Bắc (the Northwest Territory) đã được tạo nên. Sau đó chính quyền đã gặp các vấn đề làm sao xếp đặt và quản trị miền đất mới. Quốc Hội Hoa Kỳ thời đó đã chỉ định hai ủy ban để cứu xét các vấn đề và ông Jefferson đã là chủ tịch của cả hai ủy ban. Năm 1784, ông Jefferson đệ trình một bản dự thảo về cách tổ chức hành chính của các miền đất phía tây theo đó, toàn vùng sẽ được phân chia thành nhiều tiểu bang mới, mỗi tiểu bang sẽ được chấp nhận vào Liên Bang theo căn bản hoàn toàn bình đẳng với 13 tiểu bang nguyên thủy.

(2) Nhận xét về cách thiết lập đơn vị tiền tệ (the Notes on the Establishment of the Money Unit): bản phúc trình này đã đưa tới việc chấp nhận hệ thống thập phân hiện nay của Hoa Kỳ, gồm các loại tiền xu bằng đồng, tiền hào (dime) bằng bạc và tiền Mỹ kim (dollar). Loại tiền 5 xu (nickel) và tiền 2 mỹ kim đã không thuộc đề nghị của ông Jefferson.

Ngoài ra còn có các đạo luật về đất đai năm 1784 và 1785 của ông Jefferson được dùng làm căn bản cho các chính sách đất đai sau này của Hoa Kỳ.


6- Bộ Trưởng tại Nước Pháp.

Vào tháng 5 năm 1784, Quốc Hội Hoa Kỳ đồng ý cử ông Thomas Jefferson qua nước Pháp để tham gia cùng các ông John Adams và Benjamin Franklin trong việc thương lượng các hiệp ước thương mại. Tới năm sau, do ông Franklin từ chức Bộ Trưởng tại Pháp, ông Jefferson được lên kế tiếp chức vụ. Về sự việc này, có người đã hỏi ông Jefferson: “Có phải Ngài đã thay thế ông Franklin không? ”, thì ông Jefferson đã trả lời bằng câu: “Thưa không, tôi kế tiếp ông ấy vì không có ai có thể thay thế ông Franklin”. Thực vậy, ông Thomas Jefferson đã là người theo rất gần các đường hướng của ông Benjamin Franklin đáng kính. Ông Jefferson đã lưu lại châu Âu cho tới mùa thu năm 1789 và đã khéo léo thi hành các phương pháp ngoại giao trong hòa bình.

Vào thời điểm này, nước Pháp đang sôi sục vì phong trào Cách Mạng. Các người cải cách đã coi ông Thomas Jefferson là một nhân vật dẫn đầu về Tự Do vì các bài viết chính trị và những cải tiến luật pháp của ông tại xứ Virginia. Hầu Tước De Lafayette, một người đã từng chiến đấu trong cuộc chiến giành Độc Lập của Hoa Kỳ, cũng như các người ôn hòa khác, thường xin các lời khuyên của ông Jefferson nhưng ông Jefferson đã cố gắng đứng ngoài nội tình chính trị của nước Pháp. Dù thế, ông vẫn thảo ra Bản Hiến chương các Dân Quyền (Charter of Rights) đệ trình lên Vua Pháp. Văn kiện này và các tài liệu khác của ông Jefferson đã nghiêng về đường lối ôn hòa bởi vì, mặc dù có cảm tình với cuộc Cách Mạng Pháp do những nguyên nhân tương tự như cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, ông Jefferson nhận thấy rằng đại chúng Pháp chưa sẵn sàng với một chính phủ có nhân dân đại diện giống như tại Hoa Kỳ.

Khi qua nước Pháp, ông Thomas Jefferson đã mang theo cô con gái Martha rồi tới năm 1787, cô Mary cũng sang theo. Cả hai cô con gái này đã theo học trường dòng tại Paris. Cũng trong thời gian phục vụ tại nước Pháp, ông Thomas Jefferson đã đi thăm nhiều nơi tại châu Âu và đã học hỏi được rất nhiều, nhất là về Canh Nông và Kiến Trúc. Ông đã quan tâm tới cách trồng lúa của người dân Ý và đã đưa lén hạt lúa giống về Hoa Kỳ để trồng tại hai xứ South Carolina và Georgia. Ông Jefferson cũng báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ biết về sự phát minh ra máy dập (a stamping press), loại máy có thể sản xuất hàng loạt các bộ phận cơ khí. Về kiến trúc, ông Jefferson đã nghiên cứu, tìm hiểu nhiều dinh thự trong đó có Tòa Nhà Maison Carrée tại Nimes, để sau này ông vẽ nên Điện Capitol Mới tại Richmond của tiểu bang Virginia.

Vì muốn làm ổn định các công việc tại Hoa Kỳ, ông Jefferson đã nộp đơn xin rời khỏi nước Pháp vào năm 1789 và ông đã xuống tầu về xứ vào tháng 10 năm đó.


7- Chính Khách của Hoa Kỳ.

Trong thời gian ông Thomas Jefferson công tác tại nước Pháp, mọi công dân Mỹ đều bận rộn với việc tổ chức chính quyền. Các nhà chính trị Bắc Mỹ đã hội họp vào năm 1787 và thảo ra Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ (the Constitution of the United States). Trong thời kỳ soạn thảo, ông James Madison, một người bạn, đã gửi tới ông Jefferson một bản thảo và tuy đồng ý với các điểm nêu ra trong bản thảo này, ông Jefferson đã nhấn mạnh rằng bản văn còn thiếu phần ghi các dân quyền. Sau khi Bản Hiến Pháp được đồng thanh chấp thuận, ông James Madison đã bổ túc bằng 10 tu chính án, văn kiện này về sau trở nên Đạo Luật Dân Quyền (the Bill of Rights).

Ông Thomas Jefferson cùng với hai cô con gái trở về Monticello, Virginia, trước lễ Giáng Sinh năm 1789, khi đó Bản Hiến Pháp đã được thông qua và Tổng Thống George Washington đang chờ đợi ông với chức vụ Bộ Trưởng Ngoại Giao trong Nội Các mới. Ông Jefferson đã nhận nhiệm vụ này sau một thời gian do dự.

Ông Thomas Jefferson đã là vị Bộ Trưởng Ngoại Giao đầu tiên của Hoa Kỳ và trong suốt thời gian tại chức, ông Jefferson đã là trung tâm của một cơn lốc chính trị vừa phức tạp, vừa cay đắng. Sự khác biệt về chính kiến đã xẩy ra giữa ông Jefferson và ông Hamilton, Bộ Trưởng Ngân Khố và về sau, với ông John Adams.

Ông Alexander Hamilton (1755-1804) sinh ngày 11-1-175l tại đảo Nevis, miền Tây Ấn thuộc Anh, với cha mẹ gốc Pháp và Tô Cách Lan. Khi được 15 tuổi, cậu Alexander được gửi theo học tại trường King's College (ngày nay là Đại Học Columbia). Ông Hamilton đầu quân vào đại đội Pháo Binh của tiểu bang New York, sớm mang lon Đại Úy rồi được giới thiệu với Tướng George Washington. Từ năm 1777 tới 1781, ông Alexander Hamilton đã phục vụ trong bộ tham mưu của Tướng George Washington với cấp bậc Trung Tá.

Trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng, ông Hamilton chủ trương rằng quốc gia Hoa Kỳ cần phải có một chính quyền trung ương thật mạnh, được cai trị bởi những người quý tộc có nguồn gốc hoặc giàu có, hoặc gia thế, và ông tin tưởng rằng chế độ Quân Chủ giới hạn như của nước Anh là một hình thức chính quyền tốt đẹp nhất. Cùng với các ông James Madison và John Jay, ông Alexander Hamilton đã viết một loạt bài luận văn chính trị và ký tên là Nhóm Liên Bang (the Federalist). Các luận văn này ngày nay được coi là các bài bình luận cổ điển về Hiến Pháp (Federalist Papers). Ông Hamilton cũng đồng ý việc Quốc Hội nhận lãnh các món nợ nần của các tiểu bang trong cuộc Chiến Tranh Cách Mạng. Đề nghị này đã gây nên các phản đối mãnh liệt, nhất là tại tiểu bang Virginia và các tiểu bang phía nam, là các nơi đã trả hết nợ. Các tiểu bang này không muốn trả nợ giùm cho các địa phương khác.

Trái ngược với ông Alexander Hamilton thiên về chính quyền trung ương Liên Bang, ông Thomas Jefferson lại tin tưởng mãnh liệt vào quyền lợi của tiểu bang. Ông Hamilton thân Anh Quốc thì ông Jefferson lại ưa thích cuộc Cách Mạng Pháp. Ông Jefferson chống đối các chương trình nâng đỡ kỹ nghệ và vận chuyển đường biển của ông Hamilton vì ông muốn Hoa Kỳ là một quốc gia của các nhà nông. Đề nghị của ông Hamilton về Ngân Hàng Quốc Gia (national bank) cũng làm cho ông Jefferson lo ngại, cho rằng một ngân hàng như vậy sẽ đưa đến việc đầu cơ tài chính và làm tổn thương các quyền lợi của nông dân. Cuối cùng, Tổng Thống George Washington đã thiên về ý kiến của ông Hamilton và chấp thuận việc thành lập Ngân Hàng Quốc Gia.

Ông Jefferson đã làm phát triển lý thuyết “cấu tạo giới hạn” (strict construction) theo đó chính quyền trung ương chỉ nên có các quyền hạn được nói rõ trong Bản Hiến Pháp, trong khi ông Hamilton đáp lại bằng cách “cắt nghĩa rộng rãi” (loose interpretation) của Hiến Pháp theo đó những gì mà Hiến Pháp Hoa Kỳ không rõ ràng chối bỏ thì chính quyền trung ương có thể thi hành. Hai nhân vật trái ngược nhau này đã là các nhà lãnh đạo của hai đảng phái chính trị đầu tiên của Hoa Kỳ: đảng Liên Bang (the Federalists) theo các nguyên tắc của ông Hamilton và đảng Dân Chủ-Cộng Hòa (the Democratic Republicans) với ông Jefferson để rồi về sau trở thành đảng Dân Chủ ngày nay (the modern Democratic party).

Mặc dù các bất đồng và thù hận rõ ràng đối với ông Alexander Hamilton, ông Thomas Jefferson vẫn ở trong Nội Các cho tới cuối năm 1793 vì lòng trung thành đối với Tổng Thống George Washington.

Đối với các chính sách đối ngoại, Tổng Thống Washington thường ủng hộ đường lối của ông Jefferson nhưng lại muốn Hoa Kỳ đứng trung lập trong các cuộc tranh chấp giữa hai nước Anh và Pháp. Ông Jefferson về mặt đối ngoại cũng đã cố gắng vận động nước Anh từ bỏ các đồn lũy nằm trong Lãnh Thổ Tây Bắc, đồng thời với việc đòi hỏi lưu thông tự do dành cho các tầu thuyền trên dòng sông Mississippi.

Vào cuối nhiệm kỳ Tổng Thống thứ nhất của ông George Washington, ông Jefferson đã cùng các nhân vật nội các khác yêu cầu Tổng Thống Washington lãnh thêm một nhiệm kỳ thứ hai, trong khi nội tâm của ông lại quá chán nản với công việc hành chính và muốn vượt thoát ra khỏi “nghề làm chính trị đáng ghét”. Cuối cùng, ông Jefferson đã van nài được Tổng Thống Washington chấp thuận đơn xin từ chức của ông.

Tháng giêng năm 1794, ông Jefferson trở lại Monticello, hy vọng tìm lại hạnh phúc nơi các người bạn hàng xóm và sách vở, bận rộn với các công việc nông trại và có thời giờ sống cho mình. Nhưng cuộc sống ẩn dật này đã không kéo dài được lâu. Các người Dân Chủ-Cộng Hòa đã ủng hộ và đề nghị ông Thomas Jefferson làm ứng viên, ra tranh cử chức vụ Tổng Thống với ông John Adams, một ứng viên của đảng Liên Bang. Cuối cùng, ông Adams đã nhận được 71 phiếu cử tri và được bầu làm Tổng Thống. Ông Jefferson đứng thứ hai và theo luật lệ thời bấy giờ, đắc cử Phó Tổng Thống. Trong thời gian tại chức này, ông Jefferson đã không hoạt động tích cực được vì các nhân viên hành chính cao cấp phần lớn thuộc đảng Liên Bang. Ông Jefferson bèn tìm cách củng cố đảng Dân Chủ-Cộng Hòa và đã đạt được sự ủng hộ của các nông gia cỡ nhỏ, các người định cư biên giới và giới lao động miền Bắc. Liên lạc giữa hai ông Jefferson và ông Adams càng trở nên căng thẳng cho đến khi cả hai nhân vật này tuyệt giao với nhau vào năm 1800.

Trong thời gian làm Phó Tổng Thống và do chủ tọa Thượng Viện, ông Thomas Jefferson đã viết ra cuốn “Sách Hướng Dẫn các Thực Hành Nghị Viện” (Manual of Parliamentary Practice) mà ngày nay, Quốc Hội Hoa Kỳ còn sử dụng nhưng với hình thức đã được sửa đổi.

Vào nhiệm kỳ Tổng Thống của ông John Adams, đã có nhiều chỉ trích chính quyền từ các báo chí và các diễn giả. Để hạn chế các cuộc tấn công này, Quốc Hội Hoa Kỳ của thời đó đã thông qua vào năm 1798 bốn biện pháp gọi là “Các đạo luật ngoại kiều và chống nổi loạn” (the Alien and Sedition Acts). Các biện pháp này gồm : (1) Đạo luật quốc tịch (Naturalization act) : người ngoại quốc phải cư ngụ tại Hoa Kỳ đủ 14 năm mới được phép nhập tịch, (2) Đạo luật ngoại kiều (alien act) : cho Tổng Thống có quyền trục xuất các ngoại kiều nào bị xét là “nguy hiểm cho hòa bình và an ninh của Hoa Kỳ”, (3) Đạo luật ngoại kiều thù nghịch (alien enemies act, ngày nay còn áp dụng) : khiến cho các công dân của một quốc gia thù địch có thể bị trục xuất hay bị cầm tù trong thời chiến, (4) Đạo luật chống nổi loạn (sedition act) : cho phép kết án nặng nề các kẻ âm mưu hay có hành động chống chính quyền.

Tại khắp nơi, dân chúng đã lên tiếng phản đối các đạo luật kể trên vì các đạo luật này tước đi các tự do ngôn luận và báo chí, nhất là của đảng Dân Chủ-Cộng Hòa và ông Jefferson đã đứng đầu công cuộc chống đối các hạn chế đó. Ông Jefferson và ông James Madison đã bí mật giúp đỡ việc soạn thảo ra các “Nghị Quyết năm 1798” (the Resolutions of 1798) của các Viện Lập Pháp Virginia và Kentucky theo đó, các tiểu bang có quyền vô hiệu hóa các hành động của Liên Bang bị coi là vi hiến. Mục đích của các nghị quyết này là xét lại giá trị của các đạo luật đã được chính quyền Liên Bang thông qua để bảo vệ các quyền lợi của tiểu bang và duy trì các tự do cá nhân. 30 năm về sau, ông John Calhoun đã áp dụng quan điểm này vào lý thuyết vô hiệu hóa các đạo luật liên bang (theory of nullification of federal laws).


8- Tổng Thống thứ ba của Hoa Kỳ.

Năm 1800, các đảng viên đảng Dân Chủ-Cộng Hòa lại chỉ định ông Jefferson làm ứng viên Tổng Thống và Thượng Nghị Sĩ Aaron Burr của tiểu bang New York làm ứng viên Phó Tổng Thống. Đảng Liên Bang tái đề cử Tổng Thống John Adams và chọn nhà ngoại giao Charles C. Pinckney của tiểu bang South Carolina đứng chung liên danh. Các đảng viên Liên Bang đã cảnh cáo dân chúng Mỹ rằng ông Jefferson là một nhà “cách mạng”, một kẻ vô chính phủ và một người không có đức tin. Một tu sĩ của miền Connecticut đã viết để ám chỉ ông Jefferson: “tôi không tin rằng Thượng Đế sẽ để một kẻ vô thần ngồi trên đầu của Quốc Gia”. Nhưng đảng Liên Bang đã chia rẽ nội bộ. Ông Hamilton đã cãi nhau với ông Adams và đã viết ra tập sách mỏng chỉ trích. Thêm vào đó là ảnh hưởng của đạo luật ngoại kiều và chống nổi loạn, tất cả đã làm lợi cho đảng Dân Chủ-Cộng Hòa.

Tới kỳ kiểm phiếu, ông Jefferson giành được 73 phiếu cử tri so với 65 phiếu của ông Adams. Các người thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã ăn mừng nhưng rồi họ lại sớm thất vọng khi biết tin mỗi cử tri Dân Chủ-Cộng Hòa đã bỏ một phiếu cho ông Jefferson và một phiếu cho ông Burr, như vậy hai ông này đã bằng phiếu nhau dù rằng ý định của cử tri đoàn là bầu ông Jefferson làm Tổng Thống. Tới lúc này, Viện Dân Biểu (the House of Representatives) phải đứng ra dàn xếp. Viện này lại gồm phần lớn những người thuộc đảng Liên Bang, họ ưa thích ông Burr hơn bởi vì họ cho rằng ông Burr dễ điều khiển hơn ông Jefferson. Nhưng ông Hamilton lại bất tín nhiệm ông Burr hơn là ông Jefferson, nên dùng ảnh hưởng khiến cho đa số đảng viên Liên Bang ủng hộ ông Jefferson. Cuộc bỏ phiếu cuối cùng diễn ra vào ngày 17-2-1801, đã khiến ông Burr trở thành Phó Tổng Thống. Về sau, đã có một tu chính án theo đó mọi cử tri trong cử tri đoàn phải bỏ một phiếu cho chức vụ Tổng Thống và một phiếu khác cho chức vụ Phó Tổng Thống.

Ông Thomas Jefferson là vị Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên được bầu trong cuộc tranh cử lưỡng đảng, vị đầu tiên tuyên thệ nhậm chức tại Thủ Đô D.C. và làm việc tại Tòa Bạch Cung (the White House). Trong bài diễn văn nhậm chức, ông Jefferson đã nói năng ôn hòa hơn lúc tranh cử. Ông tuyên bố rằng: "mọi khác biệt về ý kiến không phải là sự khác biệt về nguyên tắc" và sau một thời gian ngắn, các người thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã phải chấp nhận nhiều ý tưởng của các đảng viên Liên Bang.

Do không là một diễn giả hùng biện, ông Thomas Jefferson là vị Tổng Thống đầu tiên gửi Thông Điệp Hàng Năm (annual message) tới Quốc Hội, phương thức này đã được các Tổng Thống về sau noi theo cho tới năm 1913, khi Tổng Thống Woodrow Wilson lập lại thủ tục trình bày các vấn đề quốc gia trước Quốc Hội.

Sau lễ nhậm chức, ông Thomas Jefferson dọn vào “Tòa Nhà của Tổng Thống” (the President's House), nơi này được xây cất nhưng chưa xong hẳn. Ông Jefferson đã cảm thấy cô đơn trong một dinh thự mà theo lời ông mô tả là “một tòa nhà bằng đá, đủ lớn để chứa hai Hoàng Đế, một vị Giáo Hoàng và một vị Lạt Ma”. Do bà vợ Martha của ông Jefferson đã qua đời hơn 18 năm về trước, bà Martha Randolph, con gái của ông, đôi khi phải đóng vai bà chủ nhà trong các cuộc tiếp tân và người cháu của ông Jefferson tên là James Randolph đã là đứa bé đầu tiên chào đời tại nơi này. Công việc trong Tòa Nhà Trắng này thường phải nhờ tới bà Dolley Madison, bà vợ ông Bộ Trưởng Ngoại Giao.

Tại Tòa Bạch Cung, ông Thomas Jefferson đã giữ lại người đầu bếp gốc Pháp và cố gắng làm giản dị các nghi thức, cho phép các quan khách bắt tay Tổng Thống thay vì cúi đầu, và trong các bữa ăn, ông Jefferson đã dùng tới loại bàn tròn để mọi người đều cảm thấy quan trọng ngang nhau.

Khi nắm quyền hành Tổng Thống, ông Thomas Jefferson chủ trương rằng chính quyền Liên Bang nên đóng vai trò càng nhỏ càng hay và với sự giúp đỡ của Bộ Trưởng Ngân Khố Albert Gallatin, một chính sách kinh tế giới hạn được thi hành. Chính quyền giảm bớt các ngân khoản của các bộ sở, đặc biệt là của Lục Quân và Hải Quân.

Ông Thomas Jefferson cũng cho rằng các chức vụ liên bang nên được căn cứ vào sự xứng đáng (merit). Vì các văn phòng cao cấp đều do đảng viên Liên Bang nắm giữ, ông Jefferson đã thấy rằng “các chức vụ bỏ trống vì tử vong rất ít, còn vì từ chức thì không có”, nên ông Jefferson đã tìm cách loại ra một số người thuộc đảng Liên Bang và thường chỉ định người thay thế thuộc đảng Dân Chủ-Cộng Hòa khiến cho vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của ông, phần lớn các chức vụ quan trọng của Quốc Gia lại do đảng viên Dân Chủ-Cộng Hòa phụ trách. Điều này đã trở thành “hệ thống hư hỏng” (spoils system) và bị chỉ trích.

Trong thời gian làm Tổng Thống, ông Thomas Jefferson đã duyệt xét lại rất nhiều đạo luật, công bố nhiều tu chính án. Ông Jefferson cũng tìm cách kiểm soát Tối Cao Pháp Viện nhưng không thành công, trong khi đó Tối Cao Pháp Viện lại có thể tuyên bố một đạo luật đã được thông qua bởi Quốc Hội là vi hiến, điều này đã làm cho ngành Tư Pháp có thêm quyền hành, rồi các vụ truy tố quan tòa đã khiến cho về sau có quy định rằng các thay đổi chính trị sẽ không ảnh hưởng tới nhiệm kỳ của các vị thẩm phán.


9- Chiến tranh với Tripoli và việc bành trướng lãnh thổ.

Vào cuối thể kỷ 18, bọn cướp biển Barbary thuộc miền Bắc Phi thường hay tấn công các tầu buôn của nhiều quốc gia, đòi tiền chuộc hay tiền đóng góp. Trong vòng 10 năm, Hoa Kỳ đã phải nạp triều cống cho xứ Tripoli tới 2 triệu mỹ kim. Sự kiện này đã khiến ông Thomas Jefferson luôn nhắc nhở chính phủ Hoa Kỳ phải có các hành động trừng phạt các quân cướp biển. Năm 1801, Tripoli đánh phá các tầu buôn Hoa Kỳ để đòi thêm tiền. Hạm đội của Hoa Kỳ vào thời đó còn nhỏ và yếu, nhưng đã vây hãm các hải cảng của Tripoli, oanh tạc các pháo đài và bắt buộc các bọn cướp biển phải kính nể các tầu thuyền mang lá cờ Mỹ. Đây là cuộc chiến tranh đầu tiên của quốc gia Hoa Kỳ với một nước khác, tuy chưa mang lại các thắng lợi cụ thể vào thời gian đó, nhưng đã khiến cho uy tín của Hải Quân Hoa Kỳ được tăng thêm.

Ngay từ thời phục vụ tại Quốc Hội, ông Thomas Jefferson đã rất quan tâm tới vùng đất phía tây của dòng sông Mississippi. Vào đầu năm 1803, Tổng Thống Jefferson đã giành được một số tiền 2,500 mỹ kim của Quốc Hội để thám hiểm lãnh thổ trải dài từ miền đất Ohio tới tận bờ biển Thái Bình Dương.

Ông Jefferson đã chọn lựa người bí thư trẻ tuổi của ông là Đại Úy Meriweather Lewis đứng đầu công cuộc thám hiểm. Đại Úy Lewis lại mời một người bạn cộng tác là Trung Úy William Clark. Đây là hai sĩ quan đã quen thuộc với các sắc dân da đỏ và có nhiều kinh nghiệm tại các miền biên giới. Trước khi đoàn thám hiểm ra đi, có tin đồn rằng Vua Napoléon của nước Pháp đã bán cho Hoa Kỳ miền đất Louisiana bao la, vì thế cuộc thám hiểm này sẽ là tìm hiểu lãnh thổ của Hoa Kỳ.

Các kế hoạch thám hiểm đã được nghiên cứu kỹ. Đại Úy Lewis học cách vẽ bản đồ và cách xác định kinh tuyến và vĩ tuyến. Đoàn thám hiểm sẽ đi theo dòng sông Missouri tới tận ngọn, rồi băng qua Rặng Núi Phân Chia Lục Địa (the Continental Divide), sau đó men theo dòng sông Columbia tới cửa sông. Mùa đông năm 1803-04, đoàn thám hiểm tập họp tại Illinois, gần St. Louis, gồm hai nhà lãnh đạo là Lewis và Clark, 14 binh sĩ, 9 người dân biên giới từ Kentucky, hai người Pháp chèo thuyền và một anh hầu tên là York.

Ngày 14-5-1804, đoàn thám hiểm bắt đầu theo dòng sông Missouri, qua Iowa, tới vùng Yellowstone ngày 26-4-1805 rồi tới thác nước Great Falls của miền Missouri vào ngày 13-6. Sau đó vào ngày 25, họ tới Three Forks, nơi hội tụ của 3 dòng sông và họ đã đặt tên cho 3 con sông này là Madison, Jefferson và Gallatin. Khi đi men theo dòng sông Jefferson lớn nhất, đoàn thám hiểm đã tới xứ của người da đỏ Shoshone, vượt rặng núi cao Bitterroot và tới được dòng sông Clearwater. Sau 18 tháng trường vượt núi, lội sông, ngày 7-11-1805, đoàn thám hiểm này đã tới được cửa sông Columbia, bên bờ Thái Bình Dương.

Ngày 23-3-1806, đoàn thám hiểm Lewis và Clark quay trở lại nhưng theo hai lối : Trung Úy Clark đi theo dòng sông Yellowstone và Missouri còn Đại Úy Lewis men theo nhánh Marias của dòng sông đó và cuối cùng, họ đã gặp nhau tại St. Louis vào ngày 23-9-1806 sau 2 năm, 4 tháng, 9 ngày với hành trình dài 9,650 cây số.

Nhờ cuộc thám hiểm của Đại Úy Lewis và Trung Úy Clark, các người định cư và buôn bán da thú đã lần theo con đường thám hiểm kể trên để đi về hướng tây và cũng nhờ đó mà sau này Hoa Kỳ đòi quyền sở hữu miền đất Oregon.

Cũng vào nhiệm kỳ của Tổng Thống Thomas Jefferson, dân số thuộc lãnh thổ Tây Bắc (the Northwest Territory) tăng lên rất nhanh. Năm 1803, tiểu bang Ohio tham gia vào Liên Bang và là tiểu bang thứ 17. Năm 1804, chính quyền Hoa Kỳ lại khuyến khích việc định cư tại phía tây bằng cách cắt các mảnh đất rộng 130 mẫu (hectares) xuống còn 65 mẫu để bán cho dân chúng và người nào có được 80 mỹ kim tiền mặt đều có thể đặt mua một nông trại miền biên giới.

Tổng Thống Thomas Jefferson đã thực hiện được nhiều công trình nhưng thành tích lớn lao nhất của ông là đã mua được Lãnh Thổ Louisiana (the Louisiana Territory). Đây là một sáng kiến mới để mở mang bờ cõi mà không phải dùng đến chiến tranh như cách làm của các quốc gia cổ của châu Âu.

Lãnh Thổ Louisiana là một miền đất rộng bao la, nằm giữa dòng sông Mississippi và rặng núi Rocky, được chuyển nhượng do một hiệp ước từ nước Pháp sang nước Tây Ban Nha vào năm 1762. Tới đầu thế kỷ 19, nước Pháp là quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới nên vào năm 1800, Hoàng Đế Napoléon đã bắt ép nước Tây Ban Nha yếu hèn phải trả miền đất New Orleans và lãnh thổ Louisiana cho Đế Quốc Pháp. Đây là một tin rất xấu đối với các nông gia Mỹ. Các người Mỹ định cư tại phía tây rặng núi Appalachians rất thèm muốn thành phố New Orleans vì quốc gia nào chi phối được thành phố này sẽ kiểm soát được dòng sông Mississippi. Các nông gia miền tây của lãnh thổ Hoa Kỳ vào thời đó mong muốn làm chủ được dòng sông lớn lao này bởi vì nhờ có dòng sông, họ đã chuyên chở gia súc, ngũ cốc cùng các sản phẩm khác.

Khi miền đất Louisiana thuộc về nước Tây Ban Nha, điều này không là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ, nhưng nếu lãnh thổ này thuộc về nước Pháp thì nền dân chủ và việc bành trướng của Hoa Kỳ sẽ bị de dọa. Ngoài ra nước Pháp lại là cường quốc số một, Hoa Kỳ không dễ gì xin được các ân huệ. Nhưng, nước Anh đã đánh thắng nước Pháp trên mặt biển, làm tan biến giấc mộng đế quốc thuộc địa của Napoléon. Hải quân Anh đã làm chủ Đại Tây Dương, gây khó khăn cho nước Pháp trong việc kiểm soát các miền đất thuộc Bắc Mỹ. Ông Bộ Trưởng Hoa Kỳ tại Pháp thời bấy giờ là Robert Livingston đã nêu rõ điểm này với Vua Napoléon và sau đó, Hoàng Đế Pháp quyết định bán đi lãnh thổ Louisiana.

Vào năm 1803, Tổng Thống Jefferson đã được Quốc Hội chấp thuận một ngân khoản 2 triệu mỹ kim để “chi xài đặc biệt”. Ông Jefferson liền cử ông James Monroe sang Pháp giúp Bộ Trưởng Livingston thương lượng với nước Pháp. Trước khi ông Monroe tới Paris, ông Livingston đã đề nghị với vị Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp là Talleyrand để mua một cách khiêm nhường thành phố New Orleans thì được ông Talleyrand hỏi bằng câu: “Ông trả giá bao nhiêu cho cả vùng Louisiana? ”, điều này đã làm cho ông Livingston ngỡ ngàng.

Ông James Monroe tới nước Pháp với ủy quyền của Tổng Thống để mua thành phố New Orleans và vùng Florida, với số tiền không quá 10 triệu mỹ kim, nhưng lại được đề nghị mua tất cả vùng lãnh thổ thuộc Pháp với giá tiền khoảng 15 triệu mỹ kim. Mặc dù hai nhà ngoại giao Mỹ này không có thẩm quyền chi ra một số tiền to lớn đến như thế nhưng họ cũng đã ký kết hiệp ước mua bán vào ngày 30-4-1803. Lãnh thổ mua được rộng 2,292,139 cây số vuông, gần bằng diện tích của Hoa Kỳ vào thời đó.

Khi được biết tin việc mua đất đó hoàn thành, Tổng Thống Thomas Jefferson đã phải bàng hoàng, ông lo lắng không rõ chính phủ theo Bản Hiến Pháp, có quyền nhận thêm lãnh thổ rộng lớn này vào Liên Bang hay không? Dù còn nghi ngại sự hợp hiến trong việc sát nhập một vùng đất quá rộng lớn như thế, Tổng Thống Jefferson vẫn đệ trình hiệp ước mua bán lên Thượng Viện Hoa Kỳ và bản hiệp ước đã được phê chuẩn với phiếu thuận là 24 trên 7. Ông Jefferson về sau đã nói đùa rằng ông đã “làm giãn Bản Hiến Pháp tới khi Văn Bản này bị rạn nứt”.

Nhờ thành tích của Tổng Thống Jefferson, từ tháng 12 năm 1803, lá cờ Hoa Kỳ đã tung bay trên thành phố New Orleans và nhờ việc mua đất đai, Hoa Kỳ đã kiểm soát được dòng sông Mississippi và diện tích của Hoa Kỳ đã tăng lên gấp đôi. Trước vấn đề này, quan điểm của các nhân viên nội các đã khác biệt nhau. Các đảng viên Liên Bang thuộc miền Tân Anh Cát Lợi (the New England Federalists) tỏ ra tức giận vì nhiều tiểu bang mới sát nhập vào Hoa Kỳ sẽ làm tăng thêm số phiếu tại Thượng Viện, như vậy có lợi cho các tiểu bang miền Nam và miền Tây. Về sau, người Mỹ đã nhận rõ rằng giá tiền để mua Lãnh Thổ Louisiana chỉ là một phần rất nhỏ bé so với giá trị thực của miền đất đó.


10- Nhiệm kỳ Tổng Thống lần thứ hai.

Năm 1804 có cuộc bầu cử Tổng Thống. Đất nước thịnh vượng đã là một lý do để ông Thomas Jefferson được dễ dàng đề cử và đảng Dân Chủ-Cộng Hòa đã chọn ông Thống Đốc tiểu bang New York là ông George Clinton làm ứng viên Phó Tổng Thống.

Vào lúc này, một nhóm các đảng viên Liên Bang thuộc miền đông bắc đã e ngại việc mở rộng đất nước sẽ làm yếu đi vị trí và ảnh hưởng của miền Tân Anh Cát Lợi. Họ muốn bầu ông Aaron Burr làm Thống Đốc New York để ông Burr mang tiểu bang New York cùng với miền Tân Anh Cát Lợi tách ra khỏi Liên Bang Hoa Kỳ. Ông Alexander Hamilton là người đã làm thất bại âm mưu này.

Ông Aaron Burr (1756-1836) sinh tại Newark, New Jersey, vào ngày 6-2-1756, là con của Mục Sư Aaron Burr, vị Viện Trưởng Đại Học New Jersey (ngày nay là Đại Học Princeton) và là cháu của nhà thần học danh tiếng theo đạo Calvin tên là ông Jonathan Edwards. Do cha mẹ chết sớm, ông Aaron Burr và người em gái Sarah được một người chú nuôi dạy.

Khi ông Burr đang theo học Luật Khoa thì cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ xẩy ra, ông đã tham gia vào Quân Đội Cách Mạng và phục vụ ban tham mưu của Tướng George Washington trong một thời gian ngắn. Ông Burr là một sĩ quan dễ mến và có tài nhưng ông đã từ chức vì thiếu sức khỏe và cũng vì bất mãn với chính trị. Ông được nhận vào Luật Sư Đoàn New York năm 1782 và hành nghề Luật Sư khá thành công. Ông Burr cưới góa phụ của một sĩ quan Anh và có một con gái tên là Theodosia.

Từ năm 1784, ông Aaron Burr đã giữ nhiều chức vụ của tiểu bang rồi tới năm 1791, trở thành Thượng Nghị Sĩ sau khi đánh bại người cha vợ của ông Hamilton là Tướng Philip Schuyler.

Trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1804, đảng Liên Bang đã thất bại. Ông Thomas Jefferson đoạt được 162 phiếu cử tri, so với 14 phiếu dành cho ứng viên đảng Liên Bang là ông Charles C. Pinckney, một luật sư từ miền Charleston, South Carolina. Như vậy nhiệm kỳ Tổng Thống thứ hai của ông Thomas Jefferson đã bắt đầu mà “không có một cụm mây đen nào ở chân trời”, theo như lời ông Jefferson nói, thế nhưng bão táp đã kéo đến.

Cũng vào năm 1804, cựu Phó Tổng Thống Burr đã gặp thất bại cay đắng trong cuộc tranh cử chức Thống Đốc tiểu bang New York. Ông Burr cho rằng chính ông Alexander Hamilton đã ảnh hưởng xấu tới các cơ hội chính trị của ông do các lời gièm pha, vì vậy ông Aaron Burr đã thách một cuộc đấu súng với ông Hamilton. Ông Hamilton bất đắc dĩ phải nhận lời. Sáng sớm ngày 11 tháng 7 năm 1804, tại Weehawken trên bờ sông Hudson thuộc tiểu bang New Jersey, hai chính khách Hamilton và Burr đã chĩa súng vào mặt nhau. Phát súng đầu tiên đã làm ông Hamilton bị thương rồi qua đời vào ngày hôm sau.

Cái chết của ông Hamilton đã làm ô danh ông Burr. Ông Burr còn bị truy tố về tội sát nhân tại New York và New Jersey. Ông Burr còn trù liệu một âm mưu tại miền Tây Hoa Kỳ vào năm 1806. Với sự trợ giúp của một người Ái Nhĩ Lan giàu có lập nghiệp trên một hòn đảo của dòng sông Ohio với ý định tuyển quân và chiếm cứ một vùng ở phía tây của miền Mississippi. Tướng James Wilkinson, Thống Đốc Lãnh Thổ Louisiana, đã trình bày cuộc âm mưu này với Tổng Thống Jefferson. Tổng Thống Jefferson đã cho lệnh bắt ông Burr, đưa về Richmond và xét xử về tội phản loạn. Nhưng vị Chánh Án Tối Cao Pháp Viện là ông John Marshall (1755-1835) đã cứu xét vụ án này quá hạn hẹp khiến cho bồi thẩm đoàn tha bổng ông Aaron Burr.

Tháng 3 năm 1803 nổ ra cuộc chiến tranh giữa hai nước Anh và Pháp. Tổng Thống Jefferson nhận thấy rằng nhiệm vụ chính của ông là giữ cho Hoa Kỳ ở ngoài cuộc chiến. Vào thời đó, hải quân Anh và Pháp tìm cách đánh phá các tầu biển của nhau, kết quả là phần lớn công cuộc thương mại giữa châu Âu và miền Tây Ấn lọt vào tay các nhà buôn Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, hai ngành thương mại và đóng tầu phát triển rất nhanh, cần đến hàng ngàn thủy thủ, những người này phần lớn tới từ miền Tân Anh Cát Lợi song cũng có nhiều kẻ đào ngũ từ các tầu thuyền của nước Anh. Cũng vào thời gian này, nước Anh cần tới nhiều thủy thủ nên các tầu biển của Anh thường chặn bắt các tầu biển Hoa Kỳ trên biển cả để tìm xét các thủy thủ Anh đào ngũ. Nhưng làm sao phân biệt dễ dàng giữa một người Anh và một người Mỹ, vì vậy hàng ngàn người Mỹ đã bị bắt và bị cưỡng bách đưa vào Hải Quân Anh.

Cuộc chiến tranh tại châu Âu giữa nước Anh và nước Pháp càng gia tăng cường độ, càng khiến cho cả hai phe lâm chiến không quan tâm đến quyền lợi của các quốc gia trung lập. Bằng đạo luật Berlin và Milan năm 1806 và 1807, Napoléon công bố rằng nước Pháp sẽ bắt giữ tất cả các tầu thuyền hướng về hay từ các hải cảng của nước Anh, trong khi đó chính phủ Anh ra lệnh phong tỏa các hải cảng của Pháp và của các nước đồng minh với Pháp.

Tháng 6 năm 1807, chiếc tầu chiến Anh Leopard đã chặn con tầu Hoa Kỳ tên là Chesapeake, đòi tìm xét các lính đào ngũ. Hạm trưởng của tầu Mỹ đã không tuân lệnh nên tầu Anh Leopard đã tấn công tầu Mỹ.

Tổng Thống Thomas Jefferson lúc đó biết rằng Hoa Kỳ chưa được chuẩn bị về chiến tranh và không rõ nên thiên về nước Anh hay nước Pháp. Cách đối phó của ông Jefferson là đóng cửa thị trường Mỹ đối với hàng hóa của cả hai nước và cũng không bán tiếp liệu của Hoa Kỳ cho hai nước Anh và Pháp đó. Năm 1807, đạo luật “Cấm Vận” (the Embargo Act) đã cấm chỉ việc xuất cảng từ Hoa Kỳ và ngăn cản các con tầu biển Mỹ đi vào các hải cảng ngoại quốc.

Lệnh cấm vận đã làm thiệt hại Hoa Kỳ hơn là gây tổn thất cho hai nước Anh và Pháp. Hàng ngàn con tầu biển của Mỹ nằm bất động, thủy thủ và công nhân đóng tầu thất nghiệp, hàng xuất cảng chất đống trong các nhà kho. Kinh tế của miền nam Hoa Kỳ cũng bị thiệt hại khiến cho ông Jefferson bị mất đi các sức ủng hộ. Vào thời kỳ này, nhiều người Mỹ đã không tôn trọng pháp luật, nạn buôn lậu phát triển. Chính phủ Hoa Kỳ vì thế phải tăng cường việc phòng thủ bờ biển.

Trước sự việc nan giải này, Tổng Thống Thomas Jefferson càng ngày càng phải thiên về việc kiểm soát của Liên Bang và ông đã bình luận rằng : “Luật cấm vận này chắc chắn là một vấn đề gây rắc rối nhất mà chúng tôi phải giải quyết”. Sau 14 tháng, nhiều người thấy rằng luật cấm vận đã không gây được ảnh hưởng nào đối với cả hai nước Anh và Pháp. Dân chúng Mỹ phản đối khiến cho Quốc Hội phải xét lại sự việc vào tháng 3 năm 1809 và thông qua một đạo luật mền dẻo hơn (the Non-Intercourse Act).

Vào năm 1808, nhiều người mong đợi ông Jefferson ra tranh cử một lần nữa nhưng ông Thomas Jefferson đã từ chối, vì muốn theo gương của ông George Washington là rút lui sau hai nhiệm kỳ. Ông Thomas Jefferson cũng nói rõ cho mọi người biết là ông ước mong ông James Madison sẽ là vị Tổng Thống kế tiếp. Và ông Madison đã thắng cử dễ dàng.


11- Các năm về cuối.

Ông Thomas Jefferson rời khỏi chức vụ Tổng Thống vào năm 1809, lúc 65 tuổi. Ông đã cảm thấy tự do khi dùng thời giờ cho các bạn bè, sách vở, thư từ, đất đai . . . và để vun trồng "các sự theo đuổi trầm lặng của Khoa Học". Ông đã viết: "Không một người tù nào cảm thấy nhẹ nhàng hơn tôi khi tôi trút được gánh nặng quyền lực".

Ông Thomas Jefferson đã trải qua 15 năm cuối của cuộc đời, góp công vào việc thành lập Đại Học Virginia (UVA) tại thành phố Charlottesville, khai trương vào năm 1825.

Ông Thomas Jefferson đã đóng góp rất lớn lao vào các nguyên tắc của nền Dân Chủ Hoa Kỳ. Cùng với Tổng Thống George Washington, ông Jefferson là một trong các nhân vật vĩ đại của cuộc Cách Mạng Bắc Mỹ mà danh tiếng đã vang lừng trên khắp Thế Giới. Ông Jefferson đã ủng hộ các Quyền của Con Người, các tự do ngôn luận, tôn giáo và báo chí và cũng vì tôn trọng nền tự do sau này mà ông đã phải chịu đựng nhiều vụ nói xấu của các tờ báo vô trách nhiệm.

Ông Thomas Jefferson còn là một nhà canh nông. Ông đã phát minh ra một thứ máy cày (mold board plow) được nông dân Mỹ dùng trong nhiều năm. Ông đã đưa loại máy đập lúa từ châu Âu vào Hoa Kỳ và khuyến khích ông Robert Mills trong việc phát triển loại máy gặt (mechanical reaper). Ông cũng là một trong các người chủ trương phương pháp luân canh.

Là một nhà khoa học, ông Thomas Jefferson khuyến khích việc phát minh ra “thì kế” (stopwatch = đồng hồ bấm), không những được dùng trong các cuộc chạy đua mà còn trong các công cuộc khảo sát thiên văn. Ông cũng là người đặt niềm tin vào loại tầu ngầm và về y tế, là một trong các nhân vật quan trọng chấp nhận chủng ngừa đậu mùa. Các con cháu của ông cũng đồng lòng chủng ngừa như ông.

Về kiến trúc, ông Thomas Jefferson đã vẽ kiểu cho Tòa Nhà Monticello 35 phòng của ông. Đây là một trong các dinh thự lịch sử đẹp nhất của Hoa Kỳ. Ông cũng đã vẽ kiểu Điện Capitol của Thủ Phủ Richmond và các tòa nhà ban đầu của Đại Học Virginia. Về các dụng cụ dùng trong nhà, ông Thomas Jefferson đã nghĩ ra các loại ghế xếp, ghế đu đưa, cùng cải tiến nhiều vật dụng khác. Ông thường được gọi là “Người Cha của Văn Phòng Bằng Sáng Chế” (the Father of the Patent Office) bởi vì đạo luật đầu tiên về phát minh, sáng chế đã được ông giám sát.

Ông Thomas Jefferson qua đời vào ngày 4 tháng 7 năm 1826, đúng 50 năm sau ngày Tuyên Bố Độc Lập của Hoa Kỳ và cùng tạ thế vào ngày này là người bạn cũ và cũng là đối thủ chính trị của ông: ông John Adams.

Ông Thomas Jefferson đã được chôn cất bên cạnh vợ của ông tại Monticello. Trên mộ chí của ông, mọi người đã đọc được hàng chữ mà trước kia, ông đã viết ra cho thợ khắc mộ bia : “Nơi đây an nghỉ Thomas Jefferson, tác giả của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, của Đạo Luật Virginia về Tự Do Tôn Giáo và là Người Cha của Đại Học Virginia”.

Đây là những thành tích vẻ vang mà chính ông Thomas Jefferson đã đánh giá cao hơn Chức Vụ Tổng Thống Hoa Kỳ.

---------------------


Ảnh Hưởng Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Của Hoa Kỳ Trên Thế Giới

Trần Đức Tường

JPEG - 115.9 kb

Ngày 4 tháng 7 năm 1776, 57 dân biểu của 13 tiểu bang thuộc địa vương quốc Anh tại Bắc Mỹ đã hội họp Đại Hội tại Đại Sảnh Độc Lập, thành phố Philadelphia để đồng ký tên vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập, đoạn tuyệt với triều đình nước Anh. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với lá cờ 13 ngôi sao trắng trên nền xanh và 13 vạch gồm 7 vạch đỏ, 6 vạch trắng đã ra đời. Và cũng từ đó, đã 231 lần, ngày 4 tháng 7 là ngày Lễ Độc Lập, ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ. Thiết tưởng, nhân ngày lễ lớn của Hoa Kỳ, cũng nên tìm hiểu về ý nghĩa cũng như ảnh hưởng của bản Tuyên Ngôn Độc Lập này không những trên đất nước Mỹ mà còn trên toàn thế giới từ ngày nó ra đời cho đến ngày hôm nay.

JPEG - 12.1 kb
Ông Thomas Jefferson, vị Tổng Thống thứ Ba của nước Mỹ.

Nói đến Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ, người ta không thể không nhắc đến một nhân vật mà tên tuổi đã gắn liền với bản Tuyên Ngôn lịch sử này. Đó là ông Thomas Jefferson, vị Tổng Thống thứ Ba của nước Mỹ. Vào năm 1776, ông Jefferson 34 tuổi và là dân biểu Quốc Hội tiểu bang Virginia. Lúc đó Phong trào giải thực tại Tân Thế Giới đang lên cao, cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang thuộc địa chống lại quân đội hoàng gia Anh bắt đầu từ năm 1775, đang ở vào giai đoạn khốc liệt. Ý chí đoạn tuyệt với mẫu quốc, giành độc lập đang phổ quát trong mọi tầng lớp quần chúng, sôi sục oán hận vì sưu cao thuế nặng do triều đình nước Anh giáng xuống các thuộc địa Mỹ Châu. Các tiểu bang thuộc địa đã giao cho một ủy ban gồm 5 vị đại biểu soạn bản dự thảo Tuyên Ngôn Độc Lập trước khi đưa ra Đại Hội duyệt xét biểu quyết. Ủy ban này mệnh danh là "Ủy Ban 5 Người", trong đó có Thomas Jefferson. Tiếng là bản dự thảo do 5 người biên soạn, nhưng thực chất Thomas Jefferson mới là người chính thủ bút. Ông hoàn tất bản thảo ngày 21/06/1776, đệ trình Ủy Ban và đưa ra Đại Hội liên bang thông qua ngày 4/7/1776.

JPEG - 101.6 kb

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ được viết tay trên giấy da và mang chữ ký của 57 vị đại biểu của 13 tiểu bang đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ý chính của bản văn là Tự Do. Không phải là tự do chung chung, tự do tập thể mà là quyền Tự Do Cá Nhân. Tư tưởng này đã được nêu lên một cách trang trọng ngay trong phần dẫn nhập. Bản văn viết: "Những Chân Lý sau đây đã được chúng tôi công nhận như lẽ đương nhiên: Tất cả mọi con người đã được dựng nên bình đẳng; (họ) đã được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm; trong những quyền đó có quyền sinh sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Ý tưởng thứ nhì mang tính quan trọng nòng cốt trong bản văn là tư tưởng chống độc tài, tàn ác. Và để bảo vệ các quyền tối thượng của con người, thể theo nguyện vọng của toàn dân, các thuộc địa Anh tại Châu Mỹ long trọng tuyên bố trở thành những tiểu bang Tự Do và Độc Lập. Tuy rằng nền độc lập của Hoa Kỳ chỉ được chính thức công nhận vào năm 1783 với Hiệp Định Paris, các sử gia đã đồng ý, đây là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của quốc gia thuộc địa đầu tiên trên thế giới thoát ách cai trị thực dân.

JPEG - 2.1 kb

Các nội dung trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ đã trở thành tài liệu gợi ý cho nhiều quốc gia trên thế giới. Người ta thường nhắc tới Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp sau cuộc Cách Mạng 1789. Các sử gia đã chứng minh rằng cả văn bản này cũng lấy ý từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Từ đó, một cách trực tiếp hay gián tiếp, những tư tưởng về Tự Do căn bản của con người đã được phổ quát trên trái đất này. Tuy không sao chép nguyên văn bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, nhiều quốc gia đã dựa trên những tư tưởng này để xây dựng cho đất nước mình một nền dân chủ tôn trọng mọi Nhân Quyền của người dân. Nhưng cũng có những nước, đặc biệt là CSVN, Hồ Chí Minh dùng những câu cú nguyên văn của bản tuyên ngôn của Hoa Kỳ để dẫn nhập cho bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1945 của Việt Nam, nhưng lại không tôn trọng những quyền tự do căn bản của người dân Việt Nam.

Nhân chuyến công du Hoa Kỳ của việt gian Cộng Sản Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CSVN, ký giả Mike Benge trên tờ Washington Times điện tử ngày 1/7/2007 vừa qua, đã viết rằng "Ông Thomas Jefferson có thể đã phải lật sấp trong mồ khi biết rằng Hồ Chí Minh đã lợi dụng những lời bất tử của mình để làm phần mở đầu Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam...". Ông cho rằng từ việt gian Hồ Chí Minh đến việt gian Nguyễn Minh Triết đều là những kẻ đại gian dối, đại bịp khi viết rằng con người Việt Nam có quyền sinh sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; nhưng lại áp dụng chính sách độc tài, hôn quân, bạo chúa, chà đạp Nhân Quyền tại Việt Nam. việt gian Hồ Chí Minh chỉ sao chép câu nói bất tử của Thomas Jefferson, nhưng ông ta không dám chép câu tiếp theo sau là: "Các chính phủ, do chính những con người thiết lập để bảo đảm những quyền đó, và quyền hành chính đáng của các chính phủ này xuất phát từ sự chấp nhận của nhân dân. Bất cứ hình thức chính phủ nào trở nên phá hoại đối với mục đích đó, nhân dân có quyền thay thế nó, có quyền hủy bỏ nó và thiết lập một chính phủ mới...". việt gian Hồ Chí Minh cũng như những người CSVN kế vị ông không hề chấp nhận tư tưởng Dân Chủ này. Vì thế họ luôn đàn áp những người tranh đấu đòi Dân Chủ.

Nói theo ký giả Mike Benge theo kiểu Việt Nam là CSVN "treo đầu dê, bán thịt chó". Hành động này, dân ta từ ngàn xưa cũng đã kết án và khinh bỉ vì đây là hành động gian dối không thể chấp nhận được.

http://www.viettan.org/spip.php?article3763

NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC CÁCH MẠNG HOA KỲ - 1776-Phạm Văn Tuấn

NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC CÁCH MẠNG HOA KỲ - 1776

Phạm Văn Tuấn


1/ Cuộc Chiến Tranh 7 Năm và hậu quả.

Vào đầu thế kỷ 18, cả hai nước Pháp và Anh đều tìm cách tranh quyền bá chủ trên mặt biển. Mỗi nước đều tìm kiếm các liên minh quân sự và bầu không khí chính trị của châu Âu đã trở nên căng thẳng.

Vào năm 1740, Đại Đế Frederick của nước Phổ (Prussia) chiếm tỉnh Silesia của nước Áo, gây nên cuộc chiến tranh Silesia thứ nhất và thứ hai (1740-48). Nữ Hoàng Maria Teresa của nước Áo bèn tìm cách liên minh với các nước Pháp, Nga, Thụy Điển và xứ Saxony. Đại Đế Frederick sau khi liên kết với nước Anh, đã đưa quân chiếm xứ Saxony và cuộc Chiến Tranh 7 Năm (1756-63) bắt đầu. Hậu quả của cuộc chiến tranh này là nước Pháp bị thất bại, phải ký Hiệp Ước Hòa Bình Paris 1763 (the Peace of Paris). Nước Pháp phải nhượng toàn thể miền đất Canada và vài hải đảo trong vùng biển Tây Ân (West Indies) cho nước Anh và bồi thường cho nước Tây Ban Nha bằng miền đất Louisiana nằm tại phía tây của dòng sông Mississippi, trong khi đó nước Anh cũng chiếm được miền đất Florida do Tây Ban Nha nhường lại. Từ nay, nước Phổ trở nên một cường quốc chính của châu Âu và nước Anh bắt đầu xây dựng một đế quốc với lãnh thổ có mặt trời không bao giờ lặn trên đó.

Trong cuộc Chiến Tranh 7 Năm, các người thuộc địa của Tân Thế Giới đã đứng về phía mẫu quốc Anh, họ là các dân quân cùng chiến đấu bên cạnh binh lính Anh mặc áo đỏ. Khi Hiệp Ước Hòa Bình Paris được ký kết vào năm 1763 và khi nước Anh bắt đầu nhận được miền đất Canada từ nước Pháp và miền đất Florida từ nước Tây Ban Nha, thì một nhà ngoại giao thâm niên người Pháp là ông Charles Gravier, tức Bá Tước De Vergennes (Conte de Vergennes) đã tiên đoán rằng: “ các thuộc địa Anh do không còn bị đe dọa tại các miền biên giới nữa, sẽ không cần sự trợ giúp của mẫu quốc. Khi mẫu quốc Anh chuyển phí tổn quốc phòng cho các xứ thuộc địa gánh chịu, thì các xứ này sẽ tuyên bố độc lập“. Không có lời tiên đoán nào chính xác hơn câu nói của ông Gravier!

Trận Chiến Tranh 7 Năm đã làm khô cạn ngân quỹ của Vua George III. Ngay sau khi đã có Hiệp Ước Hòa Bình, chính quyền Anh bắt đầu giảm bớt quân đội và cắt đi các chi phí của Hải Quân. Tại Bắc Mỹ, 10,000 binh lính Anh vẫn còn được duy trì để bảo vệ các xứ thuộc địa khỏi sự quấy phá của các bộ lạc da đỏ do những người Pháp buôn lông thú xúi giục. Vì lý do này, chính quyền tại London đã đòi các người thuộc địa Bắc Mỹ phải trả phí tổn vì sự bảo vệ kể trên. Để có tiền, Quốc Hội Anh đã thông qua Đạo Luật Đường (the Sugar Act) năm 1764 theo đó, 3 xu thuế được đánh lên mỗi gallon mật là nguyên liệu làm rượu rum, nhập cảng vào Tân Thế Giới. Cách đánh thuế này không đặt căn bản trên chính sách mậu dịch mà chỉ là một cách làm tăng thêm lợi tức. Trước sự bất công này, một nhà ngoại giao của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ là ông Benjamin Franklin đã qua nước Anh và đề nghị một giải pháp theo đó nước Anh nên thành lập một ngân hàng cho các người thuộc địa vay tiền và dùng tiền lời để trả chi phí cho quân đội Anh trú đóng tại Bắc Mỹ. Nhưng Quốc Hội Anh đã không lắng nghe lời đề nghị kể trên.

Đạo Luật Đường tuy được ban ra nhưng đã chỉ mang lại một lợi tức rất nhỏ, vì thế đạo luật này được sửa đổi vào năm 1764 theo đó các người thuộc địa phải trả thuế đánh vào các mặt hàng nhập cảng như đường, rượu chát và các nhu yếu phẩm khác. Để tránh thuế, nạn buôn lậu tại Tân Thế Giới gia tăng. Các nhân viên quan thuế Anh được lệnh xét hỏi các nhà buôn, tìm kiếm hàng lậu. Dù vậy, lợi tức do Đạo Luật Đường mang lại vẫn không đủ nên vào năm 1765, Đạo Luật Tem Thuế (the Stamp Act) được ban hành. Đây là thứ thuế trực thu (direct tax) đánh vào mọi ấn phẩm của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ, gồm cả báo chí, văn bản pháp luật, các tập sách mỏng, các cỗ bài. Người dân nào vi phạm đạo luật này sẽ không được xét xử trước một bồi thẩm đoàn mà sẽ bị lôi ra trước một tòa án hải quân (admiralty court) là nơi chỉ có một vị quan tòa ngồi xác định số tiền nộp phạt và vị quan tòa này cũng nhận được 5 phần trăm tiền hoa hồng của số tiền đóng phạt.

Đạo Luật Tem Thuế đã gây nên sự phản đối mãnh liệt của các người thuộc địa. Họ coi đây là một vi phạm trắng trợn vào các quyền lợi của họ. Từ xưa, họ vẫn tin tưởng vào sự phân quyền giữa nước Anh và các xứ thuộc địa theo đó, nước Anh chịu trách nhiệm đối với các vấn đề đối ngoại như tuyên chiến, ký kết hòa bình, điều hành mậu dịch, đối phó với các vấn đề thổ dân da đỏ và công việc Bưu Chính, còn các xứ thuộc địa bắt chước đường lối tổ chức chính quyền của mẫu quốc Anh bằng cách thành lập các hội đồng địa phương để quản trị các vấn đề nội bộ kể cả việc tăng thuế, duy trì quân đội và luật pháp. Đạo Luật Tem Thuế như vậy đã vi phạm các quyền lợi của người dân thuộc địa vì họ là thần dân của nước Anh, chịu thuế mà không có đại diện. Sự việc này là một vi phạm vào nền độc lập của các hội đồng dân cử địa phương, xen lấn vào nền mậu dịch và kỹ nghệ của họ, đòi hỏi một thứ thuế bất công và quân đội Anh đóng trên mảnh đất của họ là để bắt họ phải tuân phục. Tóm lại, đây là một bước trong việc tước bỏ Tự Do của họ.


2/ Sự khác biệt giữa nước Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ.

Các người thuộc địa định cư trên miền đất Bắc Mỹ rất quen thuộc với công việc tham gia vào chính quyền. 12 năm sau khi thị trấn Jamestown được thành lập tại xứ Virginia, người dân của địa phương này đã lập ra một hội đồng dân cử, được gọi là Hội Đồng Dân Biểu Burgesses (the House of Burgesses). Vào năm 1620, khi con tầu Mayflower còn đang lênh đênh trên biển cả, các người Pilgrims đã thảo ra “Bản Điều Lệ Mayflower” (the Mayflower Compact). Tới khi các xứ thuộc địa phát triển, mỗi xứ đều bầu lên một hội đồng dân cử để bảo vệ và duy trì "tự do" của những người định cư. Các người Thanh Giáo tới Tân Thế Giới để được tự do tín ngưỡng. Hai xứ Rhode Island và Maryland đã chủ trương hoàn toàn tự do tôn giáo. Người Công Giáo (Catholics) an cư tại xứ Maryland. Bên cạnh đó là xứ Pennsylvania thuộc về người theo đạo Quakers. Người Hòa Lan định cư tại Amsterdam, nơi mà ngày nay là tiểu bang New York. Nền giáo dục cũng được dân thuộc địa chú ý. Đại Học Harvard được thành lập năm 1636, chỉ 16 năm sau khi dân Pilgrims đặt chân lên đất liền. Năm 1647, xứ Massachusetts cung cấp cho dân chúng nền giáo dục tiểu học.

Tại Tân Thế Giới, đất đai rất rẻ tiền hoặc cho không. Một người dân thường chỉ cần đi tới vùng biên giới, dựng nên một căn nhà gỗ và khai quang một mảnh đất, người đó đã trở nên một chủ đất. Một người làm công sau khi hết thời hạn làm mướn, có thể sở hữu một nông trại. Gỗ rừng nhiều vô kể. Tại các hải cảng đều có các sân đóng tầu và các kỹ nghệ nhỏ bắt đầu phát triển : xay ngũ cốc, dệt vải, làm da thuộc và chế tạo các đồ dùng kim loại. Người dân định cư trên các xứ thuộc địa Bắc Mỹ đều chăm chỉ, nhiều sáng kiến, biết khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nhờ vậy nền kinh tế của họ phát triển. Các con tầu biển của Bắc Mỹ đã chở hàng hóa tới bán tại các hải cảng thuộc vùng biển Tây Ân.

Trên miền đất phía tây của Bắc Mỹ, các người định cư đổ về thung lũng Ohio và các kẻ đầu cơ đất đai rất bận rộn khai thác miền hoang dã, lấn chiếm lãnh thổ của người da đỏ địa phương, săn bắn các thú vật có lông, bán rượu rum cho thổ dân da đỏ và lường gạt họ về lông thú. Các việc lấn đất của người da trắng vẫn tiếp tục dù cho có Bản Công Bố Năm 1763 (the Proclamation of 1763) của nước Anh ngăn cấm các người định cư không được mua đất bên ngoài đường ranh nối nguồn của các dòng sông chảy vào Đại Tây Dương.

Vào thế kỷ 18, nước Anh còn là một quốc gia do nhiều nhà quý tộc cai trị. Đây là những người danh giá, xuất thân từ các gia đình quyền quý, được giáo dục theo một nền văn hóa cao cấp và uyên thâm trong khi đó, người dân Anh bình thường không có được các cơ hội thăng tiến, họ chấp nhận địa vị thấp hèn, lệ thuộc, họ phải làm việc cực nhọc, kính trọng cấp trên và tuân phục các kẻ quyền thế. Nhưng tại Tân Thế Giới, đời sống khác hẳn. Xã hội của những người thuộc địa mang đặc tính dân chủ. Tại Bắc Mỹ, đã không có các hầu tước, các nhà quý tộc. Cách thức giao tế tại nơi này có tính mộc mạc, quê mùa, đơn giản. Miền hoang dã này đã thu hút những tinh thần độc lập và cuộc sống nơi biên giới nghèo nàn đòi hỏi ở người khẩn hoang lòng tự tin, cách tự quản trị. Tại xứ thuộc địa, đã không có các di sản thừa kế, không có các đặc quyền do dòng họ truyền xuống. Các cơ hội tại Tân Thế Giới làm cho mọi người dân có đầu óc năng động, tranh đấu, họ không bị giới hạn bởi tập quán cũ, giai cấp xã hội cũ, họ ưa thích tính đơn giản, tự do, phóng khoáng

Giữa xã hội Anh và xã hội thuộc địa đã có rất nhiều khác biệt. Chế độ quý tộc tại nước Anh đã sống theo nghi thức, quy lệ, phép lịch sự. Các nhà lãnh đạo Anh đã khinh rẻ thói quê mùa của người dân Bắc Mỹ, từ y phục thô sơ, lời nói vụng về, tới cử chỉ thiếu lịch sự, thiếu nền giáo dục cao cấp. Năm 1750, các chính khách của nước Anh tin tưởng rằng Quốc Hội Anh là đại diện của toàn thể dân tộc Anh, kể cả những người xa xứ, không bỏ phiếu tại quê nhà. Quốc Hội Anh có toàn quyền đối với các xứ thuộc địa, có thể đặt ra luật pháp, bắt buộc dân thuộc địa phải tuân phục, đánh thuế lên loại người dân xa xứ này và ngay cả có quyền giải tán các hội đồng dân cử của các miền đất mới.

Ngược lại, các nhà ái quốc Bắc Mỹ của thời đại đó lại không tin tưởng vào Quốc Hội Anh. Họ cho rằng Quốc Hội Anh phải tôn trọng một số quyền lợi tự nhiên của con người và họ coi là vô hiệu các hành động nào của Quốc Hội mang tính cách tước đoạt những quyền lợi tự nhiên đó. Vì thế, Vua nước Anh và không phải là Quốc Hội Anh, đã là sợi dây kết nối mẫu quốc Anh với các chính quyền thuộc địa. Các khế ước ban đầu giữa Vua nước Anh và những người định cư đầu tiên đã cho người dân thuộc địa và con cháu của họ các quyền lợi về đời sống, tự do và tài sản. Tới khi Quốc Hội Anh tìm cách tước đoạt đi các quyền lợi này, thì khế ước ban đầu coi như bị hủy bỏ và người dân xứ thuộc địa Bắc Mỹ không còn phải trung thành với Vua nước Anh nữa.

Một khuyết điểm khác của chính quyền Anh thời đó là thiếu hẳn một cơ quan trung ương quản trị các xứ thuộc địa. Chính quyền hành pháp của nước Anh lại bị phân hóa giữa nhiều bộ sở và ủy ban, những cơ quan này đã không hành động nhanh chóng và phối hợp. Bộ Mậu Dịch Anh là cơ quan hiểu rõ nhất các xứ thuộc địa lại không có quyền quyết định về các đạo luật, các nghị định áp dụng tại miền Tân Thế Giới, trong khi chính quyền Anh còn có tham nhũng, hối lộ và các nhà cai trị gửi qua các xứ thuộc địa là những người không đủ hiểu biết và không có khả năng nắm giữ các chức vụ khó khăn tại các miền đất mới. Khoảng cách giữa nước Anh và miền Bắc Mỹ cũng là một trở ngại trong việc thi hành các chính sách thuộc địa. Edmund Burke đã viết rằng:”sóng biển đã làm cho mệnh lệnh và việc thi hành mất nhiều tháng”.

Vào năm 1760, Vua George III lên ngai vàng. Nhà Vua cố tìm cách nắm quyền cai trị nước Anh và chế ngự Quốc Hội Anh. Chính quyền chia rẽ từ cấp trên, các yếu tố đảng phái, sự bất lực và tham nhũng, các thay đổi chính sách càng khiến cho việc quản trị miền Tân Thế Giới thiếu đi tính nhất quán. Vị Thủ Tướng của nước Anh vào năm 1763 là ông George Grenville lại không hiểu rõ nguyện vọng của người dân thuộc địa Bắc Mỹ, ông đã tìm cách khai thác các xứ thuộc địa sao cho có lợi nhất cho nước Anh. Tại miền Tân Anh Cát Lợi, người dân bị cấm đoán cắt xẻ các cây gỗ lớn có thể dùng làm cột buồm cho tầu Hải Quân Anh. Đất đai tại miền tây cũng bị kiểm soát. Nước Anh còn muốn khống chế nền mậu dịch của Tân Thế Giới. Theo thuyết “Trọng Thương” (the mercantile theory), các thuộc địa Anh phải tiêu thụ các sản phẩm của nước Anh và được hướng dẫn sản xuất ra các mặt hàng nào mà nước Anh không làm ra được, rồi trao đổi sản phẩm tại các hải cảng Anh. Các hội đồng dân cử địa phương của Bắc Mỹ không được quyền giới hạn việc bán ra các hàng hóa Anh tại Tân Thế Giới và một loạt các đạo luật mậu dịch (Acts of Trade) đã giới hạn rất nhiều các cơ hội phát triển của các xứ thuộc địa. Ngoài ra, tất cả các sản phẩm xuất và nhập cảng vào các xứ thuộc địa Bắc Mỹ đều phải do các tầu biển Anh chuyên chở.

Đối với dân thuộc địa Bắc Mỹ, họ rất bất mãn. Sản phẩm nông nghiệp của họ bán ra nước ngoài đã không đủ để mua vào các loại hàng hóa sản xuất từ nước Anh. Họ nhận thấy họ bị các nhà buôn Anh bóc lột. Giải pháp của họ là phải phát triển các cơ sở sản xuất địa phương, chủ trương tự do mậu dịch. Vào năm 1688, chỉ có vào khoảng 200,000 người sinh sống trên các xứ thuộc địa của Anh. Vì các nơi định cư còn rải rác, nền kinh tế chưa phát triển, các xứ thuộc địa đã không tìm cách chống lại các giới hạn kinh tế của nước Anh. Nhưng vào năm 1770, dân số Bắc Mỹ đã lên tới 1.5 triệu người. Tại 4 xứ thuộc địa Tân Anh Cát Lợi miền bắc, người dân phần lớn sống bằng nông nghiệp, buôn bán lông thú và đóng tầu biển. Các xứ thuộc địa miền trung có nhiều sắc dân khác nhau, văn hóa và tôn giáo khác nhau, kể cả những người mới đến định cư từ nước Đức và từ mạn bắc xứ Ái Nhĩ Lan, họ chuyên về nông nghiệp nhiều hơn. Người dân của các xứ thuộc địa phía nam lại sống nhờ thuốc lá, gạo và bông gòn trồng trong các đồn điền. Chính những đồn điền này đã thuê mướn các dân nô lệ da đen chở tới từ châu Phi.

Tại mọi phần đất thuộc địa đều có một hình thức dân chủ đơn giản với mỗi tỉnh có một hội đồng tỉnh và mỗi xứ thuộc địa có một hội đồng dân cử (assembly) để thông qua các đạo luật mà xứ thuộc địa áp dụng. Đại biểu của loại hội đồng dân cử này là các thương gia, các chủ đồn điền giàu có và sự đại diện được phân phối rộng rãi hơn là tại Quốc Hội của nước Anh.

Theo lý thuyết, mỗi hội đồng dân cử thuộc quyền hành của vị thống đốc thuộc địa (colonial governor) và hội đồng các bộ trưởng (council of ministers) và những vị này có quyền phủ quyết các đạo luật mới vì quyền lợi của chính quyền Anh. Nhưng vị thống đốc này lại lãnh lương bổng do hội đồng dân cử trả và hội đồng này có thể làm khó khăn đối với vị thống đốc khi họ không đồng ý về một chính sách hay một sự bổ nhiệm nào đó và như vậy, hội đồng dân cử đã nắm các quyền hành chính trị địa phương.

Thời gian đã tới khi các người thuộc địa Bắc Mỹ nhận ra rằng họ có thể tự làm được những gì cần thiết cho họ mà không cần tới sự trợ giúp của người Anh nữa. Các tự do phát triển kinh tế mà người dân thuộc địa trông đợi đã vượt qua sự cần thiết bảo vệ các miền đất biên giới tại Bắc Mỹ. Sự chống đối người Anh theo quy mô lớn tại Tân Thế Giới bắt đầu.


3/ Các chống đối ban đầu.

Cơ sở đầu tiên chống đối chính quyền Anh là các ủy ban thư tín (committees of correspondence) đặt tại các thị trấn miền Tân Anh Cát Lợi, nhất là tại thành phố Boston và do đề nghị của ông Samuel Adams. Các ủy ban này đã khiến cho dân chúng tại các địa phương khác nhau và xa nhau, liên lạc được với nhau. Lớp người chống đối kế tiếp là các đại biểu cấp tỉnh (provincial congresses). Họ đã hội họp với nhau để bàn luận các vấn đề chính quyền địa phương, bất chấp sự ngăn cấm của các thống đốc người Anh và sau này, khi chính quyền Anh không được dân chúng địa phương công nhận thì các đại biểu cấp tỉnh đã đặt ra luật pháp, kiếm ra tiền và tổ chức quân đội.

Khi Đạo Luật Tem Thuế bị chống đối, một luật sư của xứ Maryland là ông Daniel Dulany đã viết rằng Quốc Hội Anh có thể đánh thuế thu ngoài (external taxes) lên nền mậu dịch của các xứ thuộc địa, mà không có quyền áp đặt thứ thuế thu trong (internal taxes) vào dân chúng. Sự phân biệt rõ ràng này rất phổ biến tại Bắc Mỹ thời đó. Vào tháng 12 năm 1767, một nhân vật chống đối khác là ông John Dickinson của xứ Pennsylvania cũng viết trong “Các Bức Thư của một Chủ Trại miền Pennsylvania” (Letters of a Farmer in Pennsylvania) rằng khi mục đích của thuế vụ để làm thăng tiền nền mậu dịch của nước Anh, thuế vụ đó được coi là hữu lý nhưng khi các loại thuế chỉ được dùng để làm tăng lợi tức, các quyền tự trị của các xứ thuộc địa sẽ bị chấm dứt. Và cũng theo ông Dickinson, bằng cách kiểm soát số tiền trả cho các thống đốc thuộc địa, các hội đồng dân cử địa phương có thể điều khiển các thống đốc nhưng khi nước Anh dùng tiền thuế để trả lương cho các thống đốc thì các vị này sẽ khống chế các hội đồng địa phương.

Khi ông Charles Towshend làm Bộ Trưởng Tài Chính của nước Anh (Chancellor of the British Exchequer), phải chịu thuế tại Bắc Mỹ là các mặt hàng gồm có chì, sơn, giấy, thủy tinh và trà. Tại các xứ thuộc địa Bắc Mỹ, hội “Các người con trai của Tự Do” (the Sons of Liberty) đã tổ chức phản đối các nhân viên thuế vụ, rồi các nhà buôn đồng ý không nhập cảng mọi hàng hóa của nước Anh và hội “Các người con gái của Tự Do” (the Daughters of Liberty) kêu gọi mọi người không dùng các sản phẩm của Anh Quốc chẳng hạn như trà, là thứ bị đánh thuế bởi Đạo Luật Townshend.

Các hành động chống đối đã lên cao điểm vào ngày 21-6-1768, khi nhân viên quan thuế chiếm giữ chiếc thuyền buồm “Tự Do” (Liberty) của ông John Hancok, một thương gia của thành phố Boston. Hàng ngàn người tại Boston đã biểu tình, đe dọa mạng sống của các nhân viên quan thuế, khiến cho những người này phải bỏ trốn. Khi tin tức về cuộc nổi loạn “Tự Do” lan tới nước Anh, 4 trung đoàn lính Anh, vào khoảng 4,000 binh sĩ, được điều động tới Boston để bảo vệ các nhân viên quan thuế.

Sự khinh rẻ dân thuộc địa của binh lính Anh cùng với các công việc làm thêm của lớp quân nhân này đã cướp đi công ăn việc làm của người dân lao động Boston, đã dẫn tới rối loạn. Vào tháng 3 năm 1770, một xáo trộn đã xẩy ra. Một số người dân Boston đã nhạo báng một nhóm binh lính Anh. Nhóm này bèn nổ súng, giết chết 5 người. Sự việc này được gọi là “cuộc tàn sát Boston” (the Boston Massacre), đã gây nên phẫn nộ và dẫn tới những hệ quả về sau.

Tới năm 1770, cách đánh thuế bởi đạo luật Townshend được vị Thủ Tướng mới là Lord North xét lại và theo đề nghị của Vua George III, thuế trà vẫn được duy trì để xác nhận quyền đánh thuế của nước Anh tại các xứ thuộc địa. Các nhà buôn Bắc Mỹ khi đó đã chấp nhận sự dung hòa này và các chống đối giảm dần nhưng do nạn buôn lậu, chỉ có 1/10 trà nhập cảng vào Bắc Mỹ chịu thuế.

Tới năm 1773, Quốc Hội Anh lại ra một đạo luật cho phép Công Ty Đông Ấn của Anh (the British East India Company) chở trà tới các xứ thuộc địa Bắc Mỹ mà không phải trả thuế cho Anh Quốc. Công ty này sắp sửa phá sản và đang lưu trữ một số lượng trà tồn kho rất lớn. Nếu công ty Đông Ấn có được độc quyền bán một mặt hàng, họ sẽ có các độc quyền khác tại Bắc Mỹ và như vậy, sẽ lấn át nền mậu dịch địa phương. Vì vậy tại New YorkPhiladelphia, các con tầu biển Đông Ấn bị phản đối, không cho bốc hàng lên bờ. Trong khi đó tại bến cảng Boston, một nhóm dân địa phương đã ăn mặc giả làm thổ dân da đỏ, ném xuống biển khối lượng trà của công ty Đông Ấn trị giá khoảng 15,000 bảng Anh. Biến cố này được gọi là “Hành động Trà Boston” (the Boston Party). Đây là một sự kiện lớn nhất, đã gây nên cuộc Chiến Tranh Cách Mạng Hoa Kỳ.

Bởi vì Công Ty Đông Ấn thuộc Anh đã thi hành luật pháp của nước Anh nên sự kiện kể trên là một cách chống đối của các xứ thuộc địa đối với Vua George III và Thủ Tướng Lord North. Quốc Hội Anh đã phản ứng lại “hành động” chống đối tại bến cảng Boston bằng 5 đạo luật trừng phạt 1774, được các người dân thuộc địa gọi là “Năm Đạo Luật Cố Chấp” (the Five Intolerable Acts). Thứ nhất, Đạo Luật Hải Cảng Boston (the Boston Act) ra lệnh đóng cửa hải cảng Boston cho đến khi nào Công Ty Đông Ấn được bồi thường về số trà bị thiệt hại. Bởi vì mậu dịch là một huyết mạch của thành phố Boston, quyết định này đã ảnh hưởng xấu tới đời sống của mọi người dân địa phương, kể cả những người vô tội. Thứ hai, Đạo Luật Chính Quyền Massachusetts (the Massachusetts Government Act) sửa lại luật của xứ thuộc địa bằng cách xác định là nhà Vua nước Anh mà không phải là Quốc Hội Anh, có quyền bổ nhiệm Hội Đồng Thống Đốc (the Government's Council) và giới hạn các buổi họp thành phố còn một lần trong một năm và như vậy, dân địa phương không có quyền tự quản trị nữa. Đạo luật thứ ba là Luật Quản Trị Tư Pháp (the Impartial Administration of Justice Act) cho phép một nhân viên người Anh hay một binh lính Anh bị tố cáo trọng tội, có thể được đưa về nước Anh để xét xử và như vậy bị cáo này không phải trình diện trước bồi thẩm đoàn thù nghịch của xứ thuộc địa. Thứ tư, theo Đạo Luật Đóng Quân (the Quartering Act), vị thống đốc Massachusetts có quyền cho quân đội đồn trú tại các quán rượu hay tòa nhà nào còn chỗ trống tại Boston. Đạo luật thứ năm không có tính trừng phạt các xứ thuộc địa mà chỉ nới rộng các biên giới của tỉnh Quebec tới dòng sông Ohio và dành cho người Công Giáo La Mã trong tỉnh đó nền tự do tôn giáo và sự bảo vệ luật pháp của cả nước Anh lẫn nước Pháp.

Để giám sát các đạo luật “cố chấp” này, Quốc Hội Anh đã bổ nhiệm Trung Tướng Thomas Gage, tư lệnh các lực lượng Anh tại Bắc Mỹ, làm thống đốc xứ Massachusetts. Nếu các xứ thuộc địa Bắc Mỹ chấp nhận 5 đạo luật cố chấp có tính trừng phạt này, họ sẽ bị mất đi quyền tự quản trị, các hội đồng dân cử địa phương sẽ mất quyền và sẽ có sự pha trộn hai thứ quyền hành quân sự và quyền hành dân sự.

Vào tháng 6 năm 1774, các nhà lãnh đạo chính trị của xứ Massachusetts đã kêu gọi tất cả các xứ thuộc địa cần phải triệu tập một thứ quốc hội và yêu cầu các xứ này gửi nhiều đại biểu tới họp. 44 đại biểu đã có mặt tại Sảnh Đường Carpenters (Carpenters' Hall) thuộc thành phố Philadelphia vào ngày 5 tháng 9 năm 1774, rồi sau đó còn có thêm các đại biểu khác, ngoại trừ xứ Georgia, nâng tổng số lên 56 người. Xứ thuộc địa Georgia không tham gia vì họ e sợ rằng nếu họ gửi đại biểu đi họp thì nước Anh sẽ không giúp họ trong việc chống lại bộ lạc da đỏ Creek (the Creek Indians). Tất cả các đại biểu đã đồng thanh chọn ông Peyton Randolph của xứ Virginia làm chủ tịch của Quốc Hội Lục Địa đầu tiên, và trong số các đại biểu ban đầu, có các nhân vật danh tiếng như George Washington, Patrick Henry, John Jay, John Adams và Samuel Adams. Vào năm sau, Quốc Hội này còn có Benjamin Franklin và Thomas Jefferson. Hội họp một cách kín đáo, các đại biểu này đã bác bỏ kế hoạch đề nghị bởi ông Joseph Galloway của xứ Pennsylvania, theo đó Quốc Hội Lục Địa nên tìm cách dung hòa chính quyền Anh với nền Tự Do của các xứ thuộc địa. Trái lại, họ đã bỏ phiếu, đồng thanh chấp nhận một bản tuyên ngôn về các quyền lợi, gồm có các quyền về đời sống, tự do, tài sản, quyền hội họp, quyền được xét xử trước một bồi thẩm đoàn. Họ cũng đòi hỏi xét lại các bất công tích lũy từ năm 1763.

Quốc Hội đầu tiên của 13 xứ thuộc địa Bắc Mỹ này ngay từ lúc đầu chỉ muốn xác định các quyền lợi của người dân Tân Thế Giới, giới hạn các quyền hành của Quốc Hội Anh và đồng lòng với nhau về các chiến thuật đối với 5 đạo luật “cố chấp”. Sau đó, các đại biểu Quốc Hội đồng ý tạm hoãn hội họp cho tới tháng 5 năm 1775. Chính vào thời gian này, các xung đột lại gia tăng khiến cho các đại biểu của các xứ thuộc địa phải tổ chức một chính quyền trung ương và một quân đội lục địa rồi Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ dần dần thành hình.